Kinh số 32 – Giải Thích Đại Kinh Rừng Sừng Bò

(Mahāhatthipadopasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Đại Kinh Rừng Sừng Bò

♦ 332. evaṃ me sutanti mahāgosiṅgasuttaṃ. tattha gosiṅgasālavanadāyeti idaṃ vasanaṭṭhānadassanatthaṃ vuttaṃ. aññesu hi suttesu, “sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme”ti evaṃ paṭhamaṃ gocaragāmaṃ dassetvā pacchā vasanaṭṭhānaṃ dasseti. imasmiṃ pana mahāgosiṅgasutte bhagavato gocaragāmo anibandho, kocideva gocaragāmo bhavissati. tasmā vasanaṭṭhānameva paridīpitaṃ. araññanidānakaṃ nāmetaṃ suttanti. sambahulehīti bahukehi. abhiññātehi abhiññātehīti sabbattha vissutehi pākaṭehi. therehi sāvakehi saddhinti pātimokkhasaṃvarādīhi thirakārakeheva dhammehi samannāgatattā therehi, savanante jātattā sāvakehi saddhiṃ ekato. idāni te there sarūpato dassento, āyasmatā ca sāriputtenātiādimāha. tatthāyasmā sāriputto attano sīlādīhi guṇehi buddhasāsane abhiññāto.

  1. Đại Kinh Rừng Sừng Bò được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, ở rừng sừng bò (gosiṅgasālavanadāye) này Ngài nói để chỉ ra chỗ ở. Bài Kinh khác Ngài chỉ ra hành xứ (gocaragāma) như vậy trước rằng: “Đức Thế Tôn ăn trú ở tinh xá Jetavana, khu vườn trưởng giã Anāthapiṇḍika, gần thành Sāvatthī” rồi nói chỗ cư ngụ ở phía sau đó, trong bài Đại Kinh Sừng Bò này hành xứ của đức Thế Tôn không chắc chắn, một số ngôi làng ấy là hành xứ. Vì thế, bài Kinh này chỉ nói đến chỗ ở duy nhất được xem rằng “bài Kinh ấy có khu rừng là nơi an trú.” sambahulehi: rất nhiều. abhiññātehi abhiññātehi (người có danh tiếng): có danh tiếng xuất hiện ở mọi nơi. Therehi sāvakehi saddhiṃ (cùng với Trưởng lão Thinh văn): là đồng nhất với các vị Trưởng lão, bởi vì có tính chất hỏi đủ với Pháp, thực hành sự kiện cố, có sự thu thúc trong giới bổn Pāṭimokkha v.v, là bậc Thanh văn, bởi đã sanh ra ở tận cùng việc lắng nghe. Bây giờ, trong khi thuyết giảng những Trưởng lão ấy, bằng cách tóm gọn mới thuyết rằng: “Và Tôn giả Sārīputta v.v,” Ở đây, Tôn giả ấy Ngài Trưởng lão Sārīputta có danh tiếng trong Phật Giáo với đức hạnh có giới đức v.v, của bản thân đã hiện hữu.

cakkhumantānaṃ gaganamajjhe ṭhito sūriyo viya cando viya, samuddatīre ṭhitānaṃ sāgaro viya ca pākaṭo paññāto. na kevalañcassa imasmiṃ sutte āgataguṇavaseneva mahantatā veditabbā, ito aññesaṃ dhammadāyādasuttaṃ anaṅgaṇasuttaṃ sammādiṭṭhisuttaṃ sīhanādasuttaṃ rathavinītaṃ mahāhatthipadopamaṃ mahāvedallaṃ cātumasuttaṃ dīghanakhaṃ anupadasuttaṃ sevitabbāsevitabbasuttaṃ saccavibhaṅgasuttaṃ piṇḍapātapārisuddhi sampasādanīyaṃ saṅgītisuttaṃ dasuttarasuttaṃ pavāraṇāsuttaṃ (saṃ. ni. 1.215 ādayo) susimasuttaṃ therapañhasuttaṃ mahāniddeso paṭisambhidāmaggo therasīhanādasuttaṃ abhinikkhamanaṃ etadagganti imesampi suttānaṃ vasena therassa mahantatā veditabbā. etadaggasmiñhi, “etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ mahāpaññānaṃ yadidaṃ sāriputto”ti (a. ni. 1.188-189) vuttaṃ.

Giống như mặt trời, mặt trăng ở chính giữa bầu trời hiện hữu cùng vị có mắt và giống như biển cả xuất hiện cùng người đứng trên bờ của đại dương. Nên biết ý nghĩa mà Trưởng lão đó là lớn lao bởi sức mạnh của đức hạnh không phải chỉ đã đến trong bài Kinh này. Nên biết ý nghĩa Trưởng lão là lớn lao bởi sức mạnh không những trong bài Kinh đó mà còn trong các bài Kinh sau: Kinh Dhammadāyāda, Kinh Anaṅgaṇa, Kinh Sammādiṭṭhi, Kinh Sīhanāda, Kinh Rathavinī, Kinh Mahāhatthipadopama, Kinh Mahāvedalla, Kinh Vatthupama (cātuma), Kinh Dīghanakha, Kinh Anupada, Kinh Sevitabbāsevitabba, Kinh Saccavibhaṅga, Kinh Piṇḍapātapārisuddhi, Kinh Sampasādanīyaṃ, Kinh Saṅgīti, Kinh Dasuttara, Kinh Pavāraṇā (saṃ. ni. 1.215 ādayo) Kinh Susima, Kinh Therapañha, Đại Diễn Giải, Phân Tích Đạo, Kinh Therasīhanāda, việc xuất gia, đệ nhất tối thắng. Thật vậy, đệ nhất tối thắng đức Thế Tôn thuyết rằng “này chư Tỳ khưu, Sarīputta là đệ nhất tối thắng của Tỳ khưu Thinh văn về đại trí tuệ của Ta.” (a. ni. 1.188-189).

mahāmoggallānopi sīlādiguṇehi ceva imasmiṃ sutte āgataguṇehi ca thero viya abhiññāto pākaṭo mahā. apicassa anumānasuttaṃ, cūḷataṇhāsaṅkhayasuttaṃ māratajjaniyasuttaṃ pāsādakampanaṃ sakalaṃ iddhipādasaṃyuttaṃ nandopanandadamanaṃ yamakapāṭihāriyakāle devalokagamanaṃ vimānavatthu petavatthu therassa abhinikkhamanaṃ etadagganti imesampi vasena mahantabhāvo veditabbo V.2.145. etadaggasmiñhi, “etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ iddhimantānaṃ yadidaṃ mahāmoggallāno”ti (a. ni. 1.190) vuttaṃ.

Trưởng lão Mahāmoggallāna cũng như Trưởng lão Sārīputta là lớn lao (đức hạnh), nổi tiếng, hiện hữu với đức hạnh có giới hạnh v.v, và với đức hạnh đã đến trong bài Kinh này. Hơn nữa, nên biết tính chất vị Trưởng lão đó là lớn lao bởi sức mạnh của những bài Kinh này là Kinh Anumāna, Kinh Cūḷataṇhāsaṅkhaya, Kinh Māratajjaniya. Làm cho lâu đài rung chuyển, toàn bộ tương ưng như ý túc, thu phục rồng chúa Nandopananda, phối hợp với toàn bộ bốn như ý túc. Việc đi đến thế giới chư Thiên trong lúc thị hiện song thông lực, chuyện thiên cung, chuyện ngạ quỷ, việc xuất gia, đệ nhất tối thắng. Thật vậy, đệ nhất tối thắng đức Thế Tôn thuyết rằng: “này chư Tỳ khưu, Moggallāna là vị tối thắng hơn các vị Tỳ khưu Thinh văn của Ta về thần thông.”  (a. ni. 1.190).

mahākassapopi sīlādiguṇehi ceva imasmiṃ sutte āgataguṇehi ca thero viya abhiññāto pākaṭo mahā. apicassa cīvaraparivattanasuttaṃ jiṇṇacīvarasuttaṃ (saṃ. ni. 2.154 ādayo) candopamaṃ sakalaṃ kassapasaṃyuttaṃ mahāariyavaṃsasuttaṃ therassa abhinikkhamanaṃ etadagganti imesampi vasena mahantabhāvo veditabbo. etadaggasmiñhi, “etadaggaṃ P.2.247, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ dhutavādānaṃ yadidaṃ mahākassapo”ti (a. ni. 1.191) vuttaṃ.

Ngay cả Trưởng lão Mahākassapa là vị lớn lao hiện hữu như thể Trưởng lão có danh tiếng hiện hữu với đức hạnh có giới hạnh v.v, và với đức hạnh như đã trình bày trong bài Kinh này. Hơn nữa, nên biết tính chất Trưởng lão đó là lớn lao do sức mạnh bài Kinh này là Kinh Cīvaraparivattana, Kinh Jiṇṇacīvara, Kinh Candopama, toàn bộ tương ưng Kassapa, Kinh Mahāariyavaṃsa, việc xuất gia của Trưởng lão vị đứng đầu. Thật vậy, vị đứng đầu đức Thế Tôn thuyết rằng: “Này chư Tỳ khưu, Mahāmoggallāna là vị đứng đầu của các Tỳ khưu của Ta về hạnh đầu đà (a. ni. 1.191).

anuruddhattheropi M.2.149 sīlādiguṇehi ceva imasmiṃ sutte āgataguṇehi ca thero viya abhiññāto pākaṭo mahā. apicassa cūḷagosiṅgasuttaṃ naḷakapānasuttaṃ anuttariyasuttaṃ upakkilesasuttaṃ anuruddhasaṃyuttaṃ mahāpurisavitakkasuttaṃ therassa abhinikkhamanaṃ etadagganti imesampi vasena mahantabhāvo veditabbo. etadaggasmiñhi, “etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ dibbacakkhukānaṃ yadidaṃ anuruddho”ti (a. ni. 1.192) vuttaṃ.

Dẫu Trưởng lão Anuruddha như vị Trưởng lão, là vị lớn lao, có danh tiếng hiện hữu bởi đức hạnh có giới đức v.v, và bởi đức hạnh đã đến trong bài Kinh này. Hơn nữa, nên biết tính chất Trưởng lão ấy là lớn lao bởi khả năng của bài Kinh này là Kinh Cūḷagosiṅga, Kinh Naḷakapāna, Kinh Anuttariya, Kinh Upakkilesa, toàn bộ tương ưng Anuruddha, Kinh Mahāpurisavitakka, việc xuất gia của Trưởng lão, vị đứng đầu. Thật vậy vị đứng đầu đức Thế Tôn thuyết rằng: “Này chư Tỳ khưu, Anuruddha là vị đứng đầu những các Tỳ khưu Thinh văn của Ta về thiên nhãn.”

āyasmatā ca revatenāti ettha pana dve revatā khadiravaniyarevato ca kaṅkhārevato ca. tattha khadiravaniyarevato dhammasenāpatittherassa kaniṭṭhabhātiko, na so idha adhippeto. “akappiyo guḷo, akappiyā muggā”ti (mahāva. 272) evaṃ kaṅkhābahulo pana thero idha revatoti adhippeto. sopi sīlādiguṇehi ceva imasmiṃ sutte āgataguṇehi ca thero viya abhiññāto pākaṭo mahā. apicassa abhinikkhamanenapi etadaggenapi mahantabhāvo veditabbo. etadaggasmiñhi, “etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ jhāyīnaṃ yadidaṃ kaṅkhārevato”ti (a. ni. 1.204) vuttaṃ.

Và Tôn giả Revata có 2 vị là khadiravaniyarevata và kaṅkhārevata. Trong 2 vị ấy, trường hợp này không có ý nói đến khadiravaniyarevata là em trai của vị Tướng Quân Chánh Pháp. Trưởng lão Revata ở đây muốn nói đề cập đến Trưởng lão vị rất nghi ngờ như thế này: “Nước mía có nên không? đậu xanh có nên không” đã mong muốn Revata ở trường hợp này. Revata ấy cũng như Trưởng lão, là người lớn lao, có danh tiếng hiện hữu bởi đức hạnh có giới hạnh v.v, và bởi đức hạnh đến trong bài kinh này. Hơn nữa, nên biết tính chất Trưởng lão ấy là lớn lao trong việc xuất gia, thậm chí trong số vị đứng đầu ấy. Thật vậy, trong số vị đứng đầu, đức Thế Tôn thuyết rằng: “này chư Tỳ khưu, kaṅkhārevata là vị hàng đầu trong số các vị Tỳ khưu Thinh văn của Ta về thiền.  (a. ni. 1.204).

ānandattheropi sīlādiguṇehi ceva imasmiṃ sutte āgataguṇehi ca thero viya abhiññāto pākaṭo mahā. apicassa sekkhasuttaṃ bāhitikasuttaṃ āneñjasappāyaṃ gopakamoggallānaṃ bahudhātukaṃ cūḷasuññataṃ mahāsuññataṃ acchariyabbhutasuttaṃ bhaddekarattaṃ mahānidānaṃ mahāparinibbānaṃ V.2.146 subhasuttaṃ cūḷaniyalokadhātusuttaṃ abhinikkhamanaṃ etadagganti imesampi vasena mahantabhāvo veditabbo. etadaggasmiñhi, “etadaggaṃ, bhikkhave, mama sāvakānaṃ bhikkhūnaṃ bahussutānaṃ yadidaṃ ānando”ti (a. ni. 1.219-223) vuttaṃ.

Cả Trưởng lão Ānanda cũng như các Trưởng lão, là vị lớn lao, có danh tiếng, hiện hữu bởi đức hạnh có giới hạnh v.v, và bởi đức hạnh đến trong bài Kinh này. Hơn nữa nên biết tính chất Trưởng lão ấy là lớn lao bởi sức mạnh của bài Kinh này là Kinh Sekkha, Kinh Bāhitika, Kinh Āneñjasappāya, Kinh Gopakamoggallāna, Kinh Bahudhātuka, Kinh Cūḷasuññata, Kinh Mahāsuññata, Kinh Acchariyabbhuta, Kinh Mahānidāna, Kinh mahāparinibbāna, Kinh Subha, Kinh Cūḷaniyalokadhātu, việc xuất gia, vị hàng đầu như thế. Thật vậy ‘vị hàng đầu’ đức Thế Tôn thuyết rằng: “Này chư Tỳ khưu, Ānanda là vị hàng đầu trong số chư Tỳ khưu Thinh văn là bậc đa văn của Ta. (a. ni. 1.219-223).

aññehi ca abhiññātehi abhiññātehīti na kevalañca eteheva, aññehi ca mahāguṇatāya pākaṭehi abhiññātehi bahūhi P.2.248 therehi sāvakehi saddhiṃ bhagavā gosiṅgasālavanadāye viharatīti attho. āyasmā hi sāriputto sayaṃ mahāpañño aññepi bahū mahāpaññe bhikkhū gahetvā tadā dasabalaṃ parivāretvā vihāsi. āyasmā M.2.150 mahāmoggallāno sayaṃ iddhimā, āyasmā mahākassapo sayaṃ dhutavādo, āyasmā anuruddho sayaṃ dibbacakkhuko, āyasmā revato sayaṃ jhānābhirato, āyasmā ānando sayaṃ bahussuto aññepi bahū bahussute bhikkhū gahetvā tadā dasabalaṃ parivāretvā vihāsi, evaṃ tadā ete ca aññe ca abhiññātā mahātherā tiṃsasahassamattā bhikkhū dasabalaṃ parivāretvā vihariṃsūti veditabbā.

Người có danh tiếng khác (aññehi ca abhiññātehi abhiññātehi): đức Thế Tôn cư trú trong khu rừng sừng bò cùng với nhiều vị Trưởng lão Thinh văn, những vị có danh tiếng, bởi người có đức hạnh to lớn. Thật vậy, lúc đó Tôn giả Sārīputta bản thân là bậc đại tuệ, đã hướng dẫn các các Tỳ khưu đa tuệ khác phần đông đã vây quanh đấng Thập Lực, Tôn giả Moggallāna bản thân có nhiều thần thông, Tôn giả Mahākassapa bản thân là vị có hạnh từ khước, Tôn giả Anuruddha bản thân là vị có thiên nhãn, Tôn giả Revata bản thân là vị hoan hỷ trong thiền, Tôn giả Ānanda bản thân là bậc đa văn dẫn dắt các vị Tỳ khưu đa văn khác vây quanh đấng Thập Lực trong thời gian đó. Đại Trưởng lão vị có danh tiếng ấy nên biết rằng là nhóm Tỳ khưu ước chừng ba nghìn vị đã vây xung quanh đấng Thập Lực.

paṭisallānā vuṭṭhitoti phalasamāpattivivekato vuṭṭhito. yenāyasmā mahākassapo tenupasaṅkamīti thero kira paṭisallānā vuṭṭhito pacchimalokadhātuṃ olokento vanante kīḷantassa mattakhattiyassa kaṇṇato patamānaṃ kuṇḍalaṃ viya, saṃharitvā samugge pakkhipamānaṃ rattakambalaṃ viya, maṇināgadantato patamānaṃ satasahassagghanikaṃ suvaṇṇapātiṃ viya ca atthaṃ gacchamānaṃ paripuṇṇapaṇṇāsayojanaṃ sūriyamaṇḍalaṃ addasa. tadanantaraṃ pācīnalokadhātuṃ olokento nemiyaṃ gahetvā parivattayamānaṃ rajatacakkaṃ viya, rajatakūṭato nikkhamantaṃ khīradhārāmaṇḍaṃ viya, sapakkhe papphoṭetvā gaganatale pakkhandamānaṃ setahaṃsaṃ viya ca meghavaṇṇāya samuddakucchito uggantvā pācīnacakkavāḷapabbatamatthake sasalakkhaṇappaṭimaṇḍitaṃ ekūnapaṇṇāsayojanaṃ candamaṇḍalaṃ addasa.

Paṭisallānā vuṭṭhito (khi đã xuất khỏi thiền tịnh): Ngài Mahāmoggallāna đã xuất khỏi sự thể nhập thánh quả. yenāyasmā mahākassapo tenupasaṅkami (đi đến gặp Trưởng lão Mahākassapa): kể rằng Trưởng lão khi đã xuất khỏi thiền tịnh quan sát thế giới hướng Tây, đã nhìn thấy lãnh địa của mặt trời rộng 50 do-tuần đang rơi xuống, giống giống bông tai rớt xuống từ dái tai của vị Sát-đế-lỵ say sưa ở bìa rừng, giống như tấm vải len màu đỏ được xếp lại đặt vào cái rương, giống như cái khay vàng có giá trì một trăm nghìn đang rơi khỏi cái móc được làm bằng ngọc ma-ni. Sau đó, (vị ấy) quan sát thế giới hướng Đông nhìn thấy mặt trăng rộng 49 do-tuần đang nhô lên khỏi mặt biển có màu tựa như mây được trang trí bởi hình dáng gần như con thỏ, trên đỉnh ngọn núi, thế giới vũ trụ hướng Đông giống như một bánh xe bằng bạc được gắn chặt vào trục bánh xe xoay tròn, như dòng sữa chảy ra từ máng bạc, và tựa như một con thiên nga trắng vỗ đôi cánh bay lên bầu trời.

tato sālavanaṃ olokesi. tasmiñhi samaye sālarukkhā mūlato paṭṭhāya yāva aggā sabbapāliphullā dukūlapārutā viya, muttākalāpavinaddhā viya ca virociṃsu. bhūmitalaṃ pupphasantharapūjāya paṭimaṇḍitaṃ viya, tattha tattha nipatantena pupphareṇunā lākhārasena siñcamānaṃ viya ca ahosi. bhamaramadhukaragaṇā kusumareṇumadamattā upagāyamānā viya vanantaresu vicaranti. tadā ca uposathadivasova hoti. atha thero, “kāya nu kho ajja ratiyā vītināmessāmī”ti cintesi, ariyasāvakā ca nāma piyadhammassavanā honti. athassa V.2.147 P.2.249 etadahosi — “ajja mayhaṃ jeṭṭhabhātikassa dhammasenāpatittherassa santikaṃ gantvā dhammaratiyā vītināmessāmī”ti. gacchanto pana ekakova agantvā “mayhaṃ piyasahāyaṃ mahākassapattheraṃ gahetvā gamissāmī”ti nisinnaṭṭhānato vuṭṭhāya cammakhaṇḍaṃ papphoṭetvā yenāyasmā mahākassapo tenupasaṅkami.

Từ đó nhìn ngắm khu rừng sa-la, vào lúc đó những bông hoa nở rộ toàn thân từ dưới gốc cây sa-la lên đến ngọn, giống như được choàng lên tấm vải dukūla và vải pāvāra 2 lớp, giống như được cột lại bằng ngọc trai, khi phấn hoa rơi xuống ở nơi đó (làm cho) mặt đất tựa như lễ vật cúng dường phủ đầy hoa, như nước sữa ở trên phấn hoa trút xuống ở nơi đó. Đàn ong vừa say phấn hoa trở nên giống như đang ca hát nhảy múa bay vào rừng. Ngày hôm đó cũng là ngày trai giới uposatha. Lúc đó Trưởng lão nghĩ rằng: “ngày hôm nay ta sẽ làm cho thời gian trôi qua với sự hoan hỷ gì đây?” Thông thường chư Thánh Thinh văn yêu thích việc lắng nghe Pháp, vị Trưởng lão có suy nghĩ rằng: “Hôm nay tôi sẽ đi đến trú xứ của vị Tướng Quân Chánh Pháp, vị ấy là anh trai của ta, làm cho thời gian trôi qua bằng sự hoan hỷ trong việc nghe Pháp.” Khi đi cũng không đi một mình (vị ấy) nghĩ rằng: “Ta sẽ đưa Trưởng lão Kassapa người bạn yêu quý của ta đi cùng, rồi từ chỗ ngồi đứng dậy, rũ tấm da, đi vào kiếm Ngài Kassapa.”

evamāvusoti kho āyasmā mahākassapoti theropi yasmā piyadhammassavanova ariyasāvako, tasmā tassa vacanaṃ sutvā gacchāvuso, tvaṃ, mayhaṃ sīsaṃ vā rujjati piṭṭhi vāti kiñci lesāpadesaṃ akatvā tuṭṭhahadayova, “evamāvuso”tiādimāha. paṭissutvā ca nisinnaṭṭhānato vuṭṭhāya cammakhaṇḍaṃ papphoṭetvā mahāmoggallānaṃ anubandhi. tasmiṃ samaye dve mahātherā paṭipāṭiyā ṭhitāni dve candamaṇḍalāni viya, dve sūriyamaṇḍalāni viya, dve chaddantanāgarājāno viya, dve sīhā viya, dve byagghā viya ca virociṃsu.

evamāvusoti kho āyasmā mahākassapo (Tôn giả Kassapa nhận lời Hiền giả Mahāmoggallāna) bởi Trưởng lão là bậc Thánh Thinh văn yêu thích việc lắng nghe Giáo Pháp, vì thế sau khi nghe lời nói của Ngài Mahāmoggallāna (vị ấy) không biện luận bất cứ lời nào rằng “Này Hiền giả, hãy đi đi, tôi đau đầu, hay đau lưng” (mà) trở lại có tâm hoan hỷ, mới nói rằng: “Được, Hiền giả.” Trưởng lão sau khi nhận lời đã đứng dậy từ chỗ ngồi, rũ tấm da (tọa cụ), theo Trưởng lão Mahāmoggallāna đi. Lúc bấy giờ 2 vị Đại Trưởng lão (sắc thân) chói sáng tựa như 2 vầng Nhật nguyệt đang ló dạng, như 2 vầng Thái dương, giống như 2 thớt tượng Chaddanta, như 2 sư tử chúa, tựa như 2 mãnh hổ.

anuruddhattheropi tasmiṃ samaye divāṭṭhāne nisinno dve mahāthere sāriputtattherassa santikaṃ gacchante disvā pacchimalokadhātuṃ olokento sūriyaṃ vanantaṃ pavisantaṃ viya, pācīnalokadhātuṃ olokento candaṃ vanantato uggacchantaṃ viya, sālavanaṃ olokento sabbapāliphullameva sālavanañca disvā ajja uposathadivaso, ime ca me jeṭṭhabhātikā dhammasenāpatissa santikaṃ gacchanti, mahantena dhammassavanena bhavitabbaṃ, ahampi dhammassavanassa bhāgī bhavissāmīti nisinnaṭṭhānato vuṭṭhāya cammakhaṇḍaṃ papphoṭetvā mahātherānaṃ padānupadiko hutvā nikkhami. tena vuttaṃ — “atha kho āyasmā ca mahāmoggallāno āyasmā ca mahākassapo āyasmā ca anuruddho yenāyasmā sāriputto tenupasaṅkamiṃsū”ti. upasaṅkamiṃsūti. paṭipāṭiyā ṭhitā tayo candā viya, sūriyā viya, sīhā viya ca virocamānā upasaṅkamiṃsu.

Lúc bấy giờ Ngài Anuruddha ngồi ở chỗ nghỉ trưa, nhìn thấy 2 vị Đại Trưởng lão đi đến trú xứ của Trưởng lão Sārīputta, khi quan sát thế giới ở hướng Tây, nhìn thấy mặt trời đang khuất ở phía sau khu rừng. Khi quan sát thế giới ở phía Nam, nhìn thấy mặt trăng lên khỏi bìa rừng và khi quan sát cây sa-la, nhìn thấy hoa nở rộ toàn thân và nghĩ rằng hôm nay là ngày trai giới uposatha. Và những Trưởng lão này là anh của ta, đi đến trú xứ của vị Tướng Quân Chánh Pháp lắng nghe Giáo Pháp bởi sự vĩ đại, ngay cả ta cũng là người có được phần tham dự nghe Pháp như vậy, đứng dậy khỏi chỗ ngồi, rũ tấm da. Theo bước chân của các Trưởng lão. Vì lý do đó Ngài nói rằng: Chính lúc đó Tôn giả Mahamoggallana, Tôn giả Mahakassapa và Tôn giả Anuruddha đến kiếm Tôn giả Sāriputta.” upasaṅkamiṃsu (đi vào kiếm): Cả 3 vị Trưởng lão đứng thành hàng chói sáng tựa như vầng Nhật nguyệt, giống như vầng Thái dương, và như chúa sư tử đến kiếm.

♦ 333. evaṃ upasaṅkamante pana te mahāthere āyasmā ānando attano divāṭṭhāne nisinnoyeva disvā, “ajja mahantaṃ dhammassavanaṃ bhavissati, mayāpi tassa bhāginā bhavitabbaṃ, na kho pana ekakova gamissāmi, mayhaṃ piyasahāyampi revatattheraṃ gahetvā gamissāmī”ti sabbaṃ mahāmoggallānassa mahākassapassa anuruddhassa upasaṅkamane vuttanayeneva P.2.250 vitthārato veditabbaṃ. iti te dve janā paṭipāṭiyā ṭhitā dve candā viya, sūriyā viya, sīhā viya ca virocamānā upasaṅkamiṃsu. tena vuttaṃ — “addasā kho āyasmā sāriputto”tiādi V.2.148.

Tôn giả Ānanda ngồi chỗ nghỉ trưa của mình, nhìn thấy các Đại Trưởng lão đến tìm kiếm như vậy, nghĩ rằng: “Việc nghe thuyết Pháp vĩ đại sẽ có trong ngày hôm nay, ngay cả ta cũng có thể là người có phần trong việc nghe thuyết Pháp ấy, ta sẽ không đi một mình mà ta sẽ đưa Trưởng lão Revata bạn yêu mến của ta đi cùng.” Mọi việc nên biết chi tiết theo cách thức đã trình bày trong việc đi đến tìm kiếm của Tôn giả mahāmoggallāna, Tôn giả Mahākassapa, Tôn giả Anuruddha, 2 vị Trưởng lão ây đứng thẳng hàng chói sáng tựa như vầng Nhật nguyệt, giống như vầng Thái dương, và như chúa sư tử đến kiếm. Vì thế Ngài mới nói rằng: “Tôn giả Sārīputta đã nhìn thấy như vậy…”

disvāna āyasmantaṃ ānandaṃ etadavocāti dūratova disvā anukkamena kathāupacāraṃ sampattametaṃ, “etu kho āyasmā”tiādivacanaṃ avoca. ramaṇīyaṃ, āvusoti ettha duvidhaṃ rāmaṇeyyakaṃ vanarāmaṇeyyakaṃ puggalarāmaṇeyyakañca. tattha vanaṃ nāma nāgasalaḷasālacampakādīhi M.2.152 sañchannaṃ hoti bahalacchāyaṃ pupphaphalūpagaṃ vividharukkhaṃ udakasampannaṃ gāmato nissaṭaṃ, idaṃ vanarāmaṇeyyakaṃ nāma. yaṃ sandhāya vuttaṃ —

Sau khi nhìn thấy đã nói cùng Tôn giả Ānanda rằng (disvāna āyasmantaṃ ānandaṃ etadavoca): Trưởng lão Sārīputta nhìn thấy từ đằng xa cho đến khi nói lời bắt đầu này có sự kết hợp với lời chào hỏi theo tuần tự “Xin mời các Ngài hãy đến.” ramaṇīyaṃ, āvuso (này Hiền giả, khu rừng Gosiṅgasāla là nơi đáng thích thú): khu rừng khả ái, con người thật đáng yêu. Ở đó, gọi là khu rừng có nhiều cây mù u, salaḷa (một loại cây có hương thơm), cây sa-la và cây campā v.v, có bóng mát dày đặc với nhiều loại cây khác nhau, ra hoa trổ quả có nước đầy đủ, bên ngoài làng, khu rừng này gọi là có sự đáng thích thú. Ngài nói đề cập như vầy

“ramaṇīyāni araññāni, yattha na ramatī jano.

vītarāgā ramissanti, na te kāmagavesino”ti. (dha. pa. 99).

Các khu rừng đáng ưa thích là nơi dân chúng không ưa thích.

Những vị có tham ái đã lìa sẽ thích thú, họ không có sự tầm cầu dục lạc.

vanaṃ pana sacepi ujjaṅgale hoti nirudakaṃ viralacchāyaṃ kaṇṭakasamākiṇṇaṃ, buddhādayopettha ariyā viharanti, idaṃ puggalarāmaṇeyyakaṃ nāma. yaṃ sandhāya vuttaṃ —

Nếu rừng ở trên cao, không có nước, có bóng mát, có gai mọc um tùm. Còn bậc Thánh, chẳng hạn như Đức Phật, ngự trong rừng này, đây gọi là hạng người đáng ưa thích. Ngài muốn đề cập rằng:

“gāme vā yadi vāraññe, ninne vā yadi vā thale.

yattha arahanto viharanti, taṃ bhūmirāmaṇeyyakan”ti. (dha. pa. 98).

“Các vị A-ra-hán cư ngụ ở đâu, dù ở làng, dù là rừng rậm, dù ở thung lũng  hay cao nguyên,  vùng đất ấy thật đáng ưa thích.”

idha pana taṃ duvidhampi labbhati. tadā hi gosiṅgasālavanaṃ sabbapāliphullaṃ hoti kusumagandhasugandhaṃ, sadevake cettha loke aggapuggalo sammāsambuddho tiṃsasahassamattehi abhiññātabhikkhūhi saddhiṃ viharati. taṃ sandhāya vuttaṃ — “ramaṇīyaṃ, āvuso ānanda, gosiṅgasālavanan”ti.

Ở chỗ được cả 2 điều như vậy, khi đó khu rừng Gosiṅgasāla có hoa nở rộ toàn thân, mùi hương thơm ngát, bậc Chánh Đẳng Chánh Giác, vị tối thượng ở trong thế gian này (và) cả trong thể giới chư Thiên, cư trú cùng với chư Tỳ khưu có danh tiếng ước chừng ba nghìn vị. Ngài muốn đề cập đến khu rừng đó, mới nói rằng: “Này Hiền giả Ānanda, khu rừng Gosiṅgasāla là nơi đáng ưa thích”

dosināti dosāpagatā, abbhaṃ mahikā dhūmo rajo rāhūti imehi pañcahi upakkilesehi virahitāti vuttaṃ hoti. sabbapāliphullāti sabbattha pāliphullā, mūlato paṭṭhāya yāva aggā apupphitaṭṭhānaṃ nāma natthi. dibbā maññe gandhā sampavantīti dibbā mandārapupphakoviḷārapāricchattakacandanacuṇṇagandhā viya samantā pavāyanti, sakkasuyāsantusitanimmānaratiparanimmitamahābrahmānaṃ otiṇṇaṭṭhānaṃ viya vāyantīti vuttaṃ hoti.

Dosinā: đã thoát khỏi lỗi lầm. Giải thích rằng loại bỏ sự tăm tối này là sương mù, mây, khói, bùi và bóng tối của thần Rāhū. Hoa nở rộ toàn thân (sabbapāliphullā): Sa-la có hoa nở rộ toàn thân từ gốc cho đến ngọn, gọi là không có bông hoa không nở. dibbā maññe gandhā sampavanti: hương thơm ngát thuộc về cõi trời lan tỏa khắp nơi giống như hương thơm của hoa mạn-đà-la, koviḷāra, pāricchattaka, và bột chiên-đàn. Giải thích rằng được lan tỏa giống như nơi ưa thích của Vua trời Sakka, Da-ma Thiên, Đâu-suất thiên, Hóa-lạc thiên, Tha-hóa-tự-tại thiên, và Đại Phạm thiên.

kathaṃrūpena āvuso ānandāti ānandatthero tesaṃ pañcannaṃ therānaṃ saṅghanavakova. kasmā thero V.2.149 taṃyeva paṭhamaṃ pucchatīti? mamāyitattā. te hi dve therā aññamaññaṃ mamāyiṃsu. sāriputtatthero, “mayā kattabbaṃ satthu upaṭṭhānaṃ karotī”ti ānandattheraṃ mamāyi. ānandatthero bhagavato sāvakānaṃ aggoti sāriputtattheraṃ mamāyi, kuladārake pabbājetvā sāriputtattherassa santike upajjhaṃ gaṇhāpesi. sāriputtattheropi tatheva akāsi. evaṃ ekamekena attano pattacīvaraṃ M.2.153 datvā pabbājetvā upajjhaṃ gaṇhāpitāni pañca bhikkhusatāni ahesuṃ. āyasmā ānando paṇītāni cīvarādīnipi labhitvā therasseva deti.

Kathaṃrūpena āvuso ānandā (này Hiền giả Ānanda khu rừng Gosiṅgasāla trở nên xinh đẹp bởi Tỳ khưu như thế nào?): Trưởng lão Ānanda là vị có tuổi hạ thấp nhất trong 5 vị. Vì sao? Trưởng lão lại hỏi điều đó trước? Bởi vì sự tôn trọng lẫn nhau. Hai vị Trưởng lão ấy tôn trọng lẫn nhau. Trưởng lão Sārīputta nghĩ rằng: “Trưởng lão Ānanda thị giả của bậc Đạo Sư của ta nên làm như vậy”, nên mới có sự yêu mến Trưởng lão Ānanda. Trưởng lão Ānanda nghĩ rằng: “Trưởng lão Sārīputta là vị Thinh văn hàng đầu của đức Thế Tôn” đã thể hiện sự kính trọng yêu quý đối với Trưởng lão Sārīputta, Trưởng lão Ānanda đã cho những đứa bé của gia tộc xuất gia, làm vị thầy tế độ ở trú xứ của Trưởng lão Sārīputta. Ngay cả Trưởng lão Sārīputta cũng đã thực hành tương tự như vậy. Từng vị Tỳ khưu dâng bình bát và y phục của mình để xuất gia, cho một vị làm thầy tế độ khoảng 500 vị , sau khi ngài Ānanda nhận được y phục thượng hạng v.v, rồi cúng dường đến Trưởng lão Sārīputta.

♦ eko kira brāhmaṇo cintesi — “buddharatanassa ca saṅgharatanassa ca pūjā paññāyati, kathaṃ nu kho dhammaratanaṃ pūjitaṃ nāma hotī”ti? so bhagavantaṃ upasaṅkamitvā etamatthaṃ pucchi. bhagavā āha — “sacesi, brāhmaṇa, dhammaratanaṃ pūjitukāmo, ekaṃ bahussutaṃ pūjehī”ti bahussutaṃ, bhante, ācikkhathāti bhikkhusaṅghaṃ pucchati. so bhikkhusaṅghaṃ upasaṅkamitvā bahussutaṃ, bhante, ācikkhathāti āha. ānandatthero brāhmaṇāti. brāhmaṇo theraṃ sahassagghanikena cīvarena pūjesi. thero taṃ gahetvā bhagavato santikaṃ agamāsi. bhagavā “kuto, ānanda, laddhan”ti āha. ekena, bhante, brāhmaṇena dinnaṃ, idaṃ panāhaṃ āyasmato sāriputtassa dātukāmoti. dehi, ānandāti. cārikaṃ pakkanto, bhanteti. āgatakāle dehīti. sikkhāpadaṃ, bhante, paññattanti. kadā pana sāriputto āgamissatīti? dasāhamattena, bhanteti. “anujānāmi, ānanda, dasāhaparamaṃ atirekacīvaraṃ nikkhipitun”ti (pārā. 461; mahāva. 347) sikkhāpadaṃ paññapesi. sāriputtattheropi tatheva yaṃkiñci manāpaṃ labhati, taṃ ānandattherassa deti. evaṃ te therā aññamaññaṃ mamāyiṃsu, iti mamāyitattā paṭhamaṃ pucchi.

Kể rằng một người Bà-la-môn nghĩ rằng – “Việc cúng dường Phật bảo và Tăng bảo nhận biết được rõ ràng, gọi là cúng dường Pháp bảo thì sẽ như thế nào?” Thế là ông đến gặp Thế Tôn để hỏi về ý nghĩa đó. Đức Thế Tôn nói rằng: “Này Bà-la-môn, nếu ông muốn cúng dường Pháp bảo, hãy cúng dường đến một vị Tỳ khưu đa văn.” Bà-la-môn nói rằng: Bạch Ngài, xin Ngài hãy nói về vị Tỳ khưu đa văn ấy. Đức Thế Tôn nói: Ông hãy hỏi chư Tỳ khưu. Vị ấy đi đến tìm kiếm Tỳ khưu Tăng và hỏi: Thưa Ngài hãy nói cho tôi về vị Tỳ khưu đa văn. Tỳ khưu nói rằng: “Này Bà-la-môn, Trưởng lão Ānanda.” Sau khi Trưởng lão thọ nhận y phục, đã đi đến chỗ ở của đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn hỏi rằng: “Này Ānanda, con đã nhận y phục này từ đâu?” Trưởng lão Ānanda nói rằng: “Thưa Thế Tôn, của một vị Bà-la-môn cúng dường.” Nhưng con muốn cúng dường y này đến Trưởng lão Sārīputta. Đức Thế Tôn nói: “Hãy cúng dường, này Ānanda.”

Ānanda: Thưa Thế Tôn, Trưởng lão Sārīputta đã đi du hành rồi.

Thế Tôn: Hãy cúng dường khi vị ấy trở về

Ānanda: Ngài đã chế định học giới rồi

Thế Tôn: Khi nào Sārīputta sẽ trở về?

Ānanda: Khoảng 10 ngày, bach Ngài.

Đức Thế Tôn mới chế định học giới bằng lời như sau: Này Ānanda, Ta cho phép cất giữ y phụ không được vượt quá 10 ngày. Ngay cả Trưởng lão Sārīputta nhận được bất cứ vật gì ưa thích, thì Ngài cũng cúng dường đến Trưởng lão Ānanda tương tự như vậy. Những vị Trưởng lão ấy tôn trọng lẫn nhau, Trưởng lão hỏi trước bằng sự tôn trọng lẫn nhau bằng cách như vậy

apica anumatipucchā nāmesā khuddakato paṭṭhāya pucchitabbā hoti. tasmā thero cintesi — “ahaṃ paṭhamaṃ ānandaṃ pucchissāmi, ānando attano paṭibhānaṃ byākarissati. tato revataṃ, anuruddhaṃ, mahākassapaṃ, mahāmoggallānaṃ P.2.252 pucchissāmi. mahāmoggallāno attano paṭibhānaṃ byākarissati. tato pañcapi therā maṃ pucchissanti, ahampi attano paṭibhānaṃ byākarissāmī”ti. ettāvatāpi ayaṃ dhammadesanā sikhāppattā vepullappattā na bhavissati, atha mayaṃ sabbepi dasabalaṃ upasaṅkamitvā pucchissāma, satthā sabbaññutaññāṇena byākarissati.

Ngoài ra, còn được gọi là xin ý kiến, nên hỏi từ những việc nhỏ. Vì thế, Trưởng lão nghĩ rằng – “ Sẽ hỏi Ānanda trước, Ānanda sẽ trả lời và làm sáng tỏ theo khả năng hiểu biết của mình. Sau đó, sẽ hỏi Revata, Anuruddha, Maha Kassapa, Maha Moggallāna. Trưởng lão Maha Moggallāna sẽ trả lời và làm sáng tỏ theo khả năng hiểu biết của mình. Từ đó 5 Trưởng lão sẽ hỏi tôi. Ngay cả tôi sẽ giải đáp và làm sáng tỏ theo khả năng hiểu biết của tôi.” Pháp thoại này sẽ không đi đến hồi kết, đạt đến sự quảng đại với chừng ấy lời được, chính vì thế chúng tôi sẽ đi đến để hỏi đấng Thập Lực, bậc Đạo Sư sẽ giải đáp và làm sáng tỏ bằng Trí Tuệ Toàn Giác.

ettāvatā ayaṃ dhammadesanā sikhāppattā vepullappattā bhavissati. yathā hi janapadamhi uppanno aṭṭo gāmabhojakaṃ pāpuṇāti, tasmiṃ nicchituṃ asakkonte janapadabhojakaṃ pāpuṇāti, tasmiṃ asakkonte mahāvinicchayāmaccaṃ, tasmiṃ asakkonte M.2.154 senāpatiṃ, tasmiṃ asakkonte uparājaṃ, tasmiṃ vinicchituṃ asakkonte rājānaṃ pāpuṇāti, raññā vinicchitakālato paṭṭhāya aṭṭo aparāparaṃ na sañcarati, rājavacaneneva chijjati. evamevaṃ ahañhi paṭhamaṃ ānandaṃ pucchissāmi … pe … atha mayaṃ sabbepi dasabalaṃ upasaṅkamitvā pucchissāma, satthā sabbaññutaññāṇena byākarissati. ettāvatā ayaṃ dhammadesanā sikhāppattā vepullappattā bhavissati. evaṃ anumatipucchaṃ pucchanto thero paṭhamaṃ ānandattheraṃ pucchi.

Pháp thoại này sẽ đi đến hồi kết, đạt đến sự quảng đại với lời nói chừng này. Như thể khi sự việc xảy ra ở vùng nông thôn, (việc đó) sẽ đến tai trưởng làng, khi vị ấy không thể đưa ra quyết định; sẽ đưa đến tỉnh trưởng, khi vị ấy không thể (quyết định); sẽ đưa đến thẩm phán, khi vị ấy không thể quyết định; sẽ đưa đến vị Tướng lĩnh, khi vị ấy không thể quyết định; sẽ đưa đến phó vương, khi phó vương không thể quyết định; sẽ đưa đến nhà vua. Kể từ thời điểm đó nhà vua đưa ra quyết định, vụ việc ấy sẽ được quyết định bởi sắc lệnh của hoàng gia, và sẽ không thay đổi như thế nào. Tôi cũng tương tự y như thế  sẽ hỏi Trưởng lão Ānanda trước… Khi đó tất cả chúng tôi sẽ đi đến hỏi đấng Thập Lực. Bậc Đạo Sư sẽ trả lời và làm sáng tỏ bằng trí tuệ toàn giác, Pháp thoại này sẽ đi đến hồi kết, đạt đến sự quảng đại bởi lời nói chỉ chừng ấy. Trưởng lão khi  hỏi ý kiến mới hỏi Trưởng lão Ānanda trước.

bahussuto hotīti bahu assa sutaṃ hoti, navaṅgaṃ satthusāsanaṃ pāḷianusandhipubbāparavasena uggahitaṃ hotīti attho. sutadharoti sutassa ādhārabhūto. yassa hi ito gahitaṃ ito palāyati, chiddaghaṭe udakaṃ viya na tiṭṭhati, parisamajjhe ekaṃ suttaṃ vā jātakaṃ vā kathetuṃ vā vācetuṃ vā na sakkoti, ayaṃ na sutadharo nāma. yassa pana uggahitaṃ buddhavacanaṃ uggahitakālasadisameva hoti, dasapi vīsatipi vassāni sajjhāyaṃ akarontassa na nassati, ayaṃ sutadharo nāma.

Là bậc đa văn (bahussuto hoti) nghĩa là vị Tỳ khưu ấy nghe nhiều, có nghĩa là học tập lời dạy của bậc Đạo Sư theo chín thể loại bởi mãnh lực Pāḷi và Anusandhi (sự liên kết) mở đầu và kết thúc. Sutadharo là người tiếp nhận gìn giữ điều đã được nghe. Thật vậy, lời Phật dạy mà chư Tăng chỉ học bằng tiếng Pāḷi ở đất nước này rồi làm mất dần ở đất nước này không tồn tại nữa tương tự y như nước trong bình chảy ra, vị ấy không thể nói hoặc đọc tụng một bài Kinh hay một câu Bổn sanh ở giữa hội chúng. Vị tỳ khưu này không được gọi là người gìn giữ điều đã được nghe. Còn những lời Phật dạy mà vị Tỳ khưu nào đã học, thời gian mà vị ấy đã học dầu vị ấy không trì tụng 10 năm, 20 năm cũng không quên. Vị tỳ khưu này được gọi là vị gìn giữ điều đã được nghe.

 sutasannicayoti sutassa sannicayabhūto. yathā hi sutaṃ hadayamañjūsāya sannicitaṃ silāyaṃ lekhā viya, suvaṇṇaghaṭe pakkhittasīhavasā viya ca ajjhosāya tiṭṭhati, ayaṃ sutasannicayo nāma. dhātāti ṭhitā paguṇā. ekaccassa hi uggahitaṃ buddhavacanaṃ dhātaṃ paguṇaṃ niccalitaṃ na hoti, asukasuttaṃ vā jātakaṃ vā kathehīti vutte sajjhāyitvā saṃsanditvā samanuggāhitvā jānissāmīti vadati. ekaccassa dhātaṃ paguṇaṃ P.2.253 bhavaṅgasotasadisaṃ hoti, asukasuttaṃ vā jātakaṃ vā kathehīti vutte uddharitvā tameva katheti. taṃ sandhāya vuttaṃ “dhātā”ti.

Sutasannicayo (tích lũy điều đã được nghe): vị tích tụ điều đã được nghe. Điều đã được nghe mà vị Tỳ khưu nào tích lũy trong rương là quả tim, giống như chữ viết được khắc lên tảng đá, giống như mỡ của sư tử chúa được đặt trong cái chậu bằng vàng, vị Tỳ khưu này gọi là tích trữ điều đã được nghe. Dhātā (đã tích trữ): được thiết lập, ghi nhớ thông thạo. Thật vậy, lời Phật dạy mà một số vị Tỳ khưu đã được học tập, được ghi nhớ thông thạo, không lệch lạc vị Tỳ khưu ấy dù bất cứ ai rằng Ngài hãy nói Kinh hoặc Bổn sanh đó nói rằng “đã thuộc lòng, so sánh, thuật lại, tôi sẽ biết.” Nhưng đối với một số vị ghi nhớ thông thạo giống như dòng chảy của tâm hộ kiếp. Khi ai nói rằng xin Ngài hãy nói bài Kinh hoặc Bổn sanh đó, vị ấy ngay lập tức nói đến bài Kinh hoặc Bổn sanh đó. “đã tích trữ” Ngài muốn đề cập đến vị Tỳ khưu ấy.

vacasā paricitāti suttadasaka-vaggadasaka-paṇṇāsadasakānaṃ vasena vācāya sajjhāyitā. manasānupekkhitāti cittena anupekkhitā, yassa vācāya sajjhāyitaṃ buddhavacanaṃ manasā cintentassa tattha tattha pākaṭaṃ hoti. mahādīpaṃ jāletvā ṭhitassa rūpagataṃ viya paññāyati. taṃ sandhāya vuttaṃ — “vacasā paricitā manasānupekkhitā”ti.

vacasā paricitā (tích trữ bằng lời nói): Vị ấy ghi nhớ bằng lời nói với khả năng của nhóm mười bài Kinh, nhóm mười phẩm, nhóm mười của paṇṇāsa. Manasānupekkhitā (được suy xét bởi ý): được suy xét bằng tâm, khi vị Tỳ khưu nào suy nghĩ bởi tâm những lời Phật dạy mà bản thân đã ghi nhớ (rồi đọc) bằng lời thì Phật ngôn sẽ xuất hiện ở nơi đó. Đó là, hiện hiện như thể hình dáng xuất hiện cùng hạng người đang đứng đã đốt lên ngọn lửa lớn. ‘​​được suy xét bởi ý’ đó Ngài muốn đề cập đến vị Tỳ khưu đó mới nói.

diṭṭhiyā suppaṭividdhāti atthato ca kāraṇato ca paññāya suppaṭividdhā. parimaṇḍalehi padabyañjanehīti ettha padameva atthassa byañjanato padabyañjanaṃ, taṃ akkharapāripūriṃ katvā dasavidhabyañjanabuddhiyo aparihāpetvā vuttaṃ V.2.151 parimaṇḍalaṃ nāma hoti, evarūpehi padabyañjanehīti attho. apica yo bhikkhu parisati dhammaṃ desento suttaṃ vā jātakaṃ vā nikkhapitvā aññaṃ upārambhakaraṃ suttaṃ āharati, tassa upamaṃ katheti, tadatthaṃ ohāreti, evamidaṃ gahetvā ettha khipanto ekapasseneva pariharanto kālaṃ ñatvā vuṭṭhahati. nikkhittasuttaṃ pana nikkhattamattameva hoti, tassa kathā aparimaṇḍalā nāma hoti.

Khéo được thấu triệt bởi chánh kiến (diṭṭhiyā suppaṭividdhā): Khéo được thấu triệt bằng trí tuệ theo nhân và quả. Parimaṇḍalehi padabyañjanehi (với câu và từ hoàn chỉnh): chính câu ấy gọi là câu và văn tự tạo ra ý nghĩa, từ ngữ được trọn vẹn, 10 byañjanabuddhi không bị biến mất, gọi là câu cú được lưu loát. Hơn nữa, vì Tỳ khưu nào khi thuyết Pháp trong hội chúng lấy Kinh hay Bổn sanh làm tiền đề, lấy bài Kinh khác đến để giải thích so sánh, đi sau vào ý nghĩa của bài Kinh đó, nắm lấy vấn đề này, buông bỏ vấn đề kia, thuyết Pháp theo một chiều hướng, khi đến giờ thì đứng dậy từ chỗ ngồi, còn bài Kinh mà vị ấy trích dẫn cũng chỉ có vậy. Lời nói của vị ấy gọi là không lưu loát.

yo pana suttaṃ vā jātakaṃ vā nikkhipitvā bahi ekapadampi agantvā pāḷiyā anusandhiñca pubbāparañca amakkhento ācariyehi dinnanaye ṭhatvā tulikāya paricchindanto viya, gambhīramātikāya udakaṃ pesento viya, padaṃ koṭṭento sindhavājānīyo viya gacchati, tassa kathā parimaṇḍalā nāma hoti. evarūpiṃ kathaṃ sandhāya — “parimaṇḍalehi padabyañjanehī”ti vuttaṃ.

Còn vị nào trích dẫn Kinh hay Bổn sanh, không lấy câu bên trong dù chỉ một câu xóa bỏ sự liên kết và đoạn đầu đoạn cuối của Pāḷī đặt theo cách mà thầy đã dạy, giống như xác định được khéo léo bằng cán cân, giống như vận chuyển nước đến vùng sâu, tương tự loài ngựa Sindhavā thuần chủng giẫm chân, lời nói của vị Tỳ khưu ấy gọi là lưu loát, Ngài muốn đề cập đến lời nói bằng hình thức như vậy mới nói rằng “với câu và từ hoàn chỉnh”

Anuppabandhehīti (sự liên tiếp) ettha yo bhikkhu dhammaṃ kathento suttaṃ vā jātakaṃ vā ārabhitvā āraddhakālato paṭṭhāya turitaturito araṇiṃ manthento viya, uṇhakhādanīyaṃ khādanto viya, pāḷiyā anusandhipubbāparesu gahitaṃ gahitameva aggahitaṃ aggahitameva ca katvā purāṇapaṇṇantaresu caramānaṃ godhaṃ uṭṭhapento viya tattha tattha paharanto osāpento ohāya gacchati. yopi dhammaṃ kathento P.2.254 kālena sīghaṃ kālena dandhaṃ kālena mahāsaddaṃ kālena khuddakasaddaṃ karoti. yathā petaggi kālena jalati, kālena nibbāyati, evameva idha petaggidhammakathiko nāma hoti, parisāya uṭṭhātukāmāya punappunaṃ ārabhati.

Anuppabandhehi nghĩa là ở đây vị Tỳ khưu nào thuyết giảng Giáo Pháp từ lúc bắt đầu Kinh hoặc Jataka ra sức vội vã như một người dùng cây cọ xát để lấy lửa, giống như người nhai thức ăn nóng, thực hành sự nắm lấy và không nắm lấy, dẫn chứng từ Pāḷī cả sự liên kết ở phần mở đầu và phần cuối giống như không được dẫn chứng, mập mờ ở chỗ này, chỗ kia, khi đã kết thúc rồi đứng dậy, như một người tìm kiếm con kỳ đà lang thang giữa những đống lá cũ. Vị Tỳ khưu nào khi nói Pháp, thỉnh thoảng (nói) nhanh, thỉnh thoảng (nói) chậm, đôi khi (nói) lớn tiếng, đôi khi (nói) chậm, đôi khi giữ im lặng như thế nào. Vị Tỳ khưu đó được gọi là Pháp sư, tương tự y như ngọn lửa hỏa táng, khi hội chúng mong muốn sẽ đứng dậy, bắt đầu lại.

yopi kathento tattha tattha vitthāyati, nitthunanto kandanto viya katheti, imesaṃ sabbesampi kathā appabandhā nāma hoti. yo pana suttaṃ ārabhitvā ācariyehi dinnanaye ṭhito acchinnadhāraṃ katvā nadīsotaṃ viya pavatteti, ākāsagaṅgato bhassamānaṃ udakaṃ viya nirantaraṃ kathaṃ pavatteti, tassa kathā anuppabandhā hoti. taṃ sandhāya vuttaṃ M.2.156 “anuppabandhehī”ti. anusayasamugghātāyāti sattannaṃ anusayānaṃ samugghātatthāya. evarūpenāti evarūpena bahussutena bhikkhunā tathārūpeneva bhikkhusatena bhikkhusahassena vā saṅghāṭikaṇṇena vā saṅghāṭikaṇṇaṃ, pallaṅkena vā pallaṅkaṃ āhacca nisinnena gosiṅgasālavanaṃ sobheyya. iminā nayena sabbavāresu attho veditabbo.

Dầu vị Tỳ khưu nào, khi nói chi tiết ở nơi đó, nhưng vị ấy nói giống như thở dài, như tiếng than vãn, thậm chí toàn bộ lời nói của vị Tỳ khưu gọi là không gián đoạn. Bất cứ vị nào bắt đầu bài Kinh, được thiết lập trong phương thức mà thầy đã dạy, làm vận hành không gián đoạn, giống như dòng nước chảy làm cho lời nói trở nên không bị gián đoạn, tương tự y như thác nước từ sông Gaṅga. Lời nói của vị ấy gọi là liên kết theo tuần tự. Ngài muốn đề cập đến lời nói đó mới nói rằng “Anuppabandhehi (sự liên tiếp)”. Anusayasamugghātāya nhằm mục đích bứng tận gốc 7 tùy miên. Bằng hình thức ấy (evarūpena): khu rừng Gosiṅgasāla trở nên xinh đẹp bởi vị Tỳ khưu đa văn bằng hình thức như vậy, hoặc vị Tỳ khưu trình bày hình thức ấy, góc cạnh Tăng-già-lê với cạnh Tăng-già-lê kết chặt nhau, hoặc đầu gối với đầu gối chạm vào nhau, nên biết ý nghĩa trong toàn bộ phần này theo cách thức này.

  1. paṭisallānaṃ assa ārāmoti paṭisallānārāmo. paṭisallāne ratoti paṭisallānarato.
  2. Người có sự vui thích trong thiền định (paṭisallānārāmo): bởi ý nghĩa sự an tịnh là nơi vui thích của vị Tỳ khưu đó. Thích thú trong việc thiền định (paṭisallānarato): nghĩa là hoan hỷ trong việc thiền định.
  3. sahassaṃ lokānanti sahassaṃ lokadhātūnaṃ. ettakañhi therassa dhuvasevanaṃ āvajjanapaṭibaddhaṃ, ākaṅkhamāno pana thero anekānipi cakkavāḷasahassāni voloketiyeva. uparipāsādavaragatoti sattabhūmakassa vā navabhūmakassa vā pāsādavarassa upari gato. sahassaṃ nemimaṇḍalānaṃ volokeyyāti pāsādapariveṇe nābhiyā patiṭṭhitānaṃ nemivaṭṭiyā nemivaṭṭiṃ āhacca ṭhitānaṃ nemimaṇḍalānaṃ sahassaṃ vātapānaṃ vivaritvā olokeyya, tassa nābhiyopi pākaṭā honti, arāpi arantarānipi nemiyopi.

Ngàn thế giới (sahassaṃ lokānaṃ) là ngàn thế giới. Thật vậy, bằng gắn liền vào sự hướng tâm của vị Trưởng lão thường xuyên sử dụng bằng chừng này. Nếu vị Trưởng lão muốn (vị ấy) có thể quan sát nhiều nghìn vũ trụ thế giới cũng được. Bước lên trên đỉnh một tòa lâu đài xinh đẹp (uparipāsādavaragato): người bước lên tòa lâu đài xinh đẹp 7 tầng, hoặc 9 tầng. Có thể quán sát một ngàn đường vòng xung quanh (sahassaṃ nemimaṇḍalānaṃ volokeyya) có thể mở cửa sổ quan sát cả nghìn đường vòng xung quanh được đặt kiên cố ở trung tâm, viền xung quanh cùng với viền xung quanh được đặt dính liền nhau ở trong khuôn viên tòa lâu đài, cái trục, hay căm, ở giữa căm, hay vành bánh xe mới xuất hiện cùng người ấy

evameva kho, āvusoti, āvuso, evaṃ ayampi dibbacakkhuko bhikkhu dibbena cakkhunā atikkantamānusakena sahassaṃ lokānaṃ voloketi. tassa pāsāde ṭhitapurisassa cakkanābhiyo viya cakkavāḷasahasse sinerusahassaṃ pākaṭaṃ hoti. arā viya dīpā pākaṭā honti. arantarāni viya dīpaṭṭhitamanussā pākaṭā honti. nemiyo viya cakkavāḷapabbatā pākaṭā honti.

Vị Tỳ khưu cũng tương tự như thế đó (evameva kho, āvuso): Vị Tỳ khưu có thiên nhãn, quan sát ngàn thế giới bằng thiên nhãn vượt ngoài con mắt của nhân loại, ngàn ngọn núi Sineru trong ngàn thế giới vũ trụ xuất hiện, giống như căm bánh xe xuất hiện nơi hạng người đứng ở trên toàn lâu đài ấy, châu lục xuất hiện giống như căm xe, người đứng ở trên lục địa xuất hiện giống như ở giữa căm, đỉnh núi thế giới vũ trụ hiện hữu giống như vành bánh xe.

  1. āraññikoti samādiṇṇāraññadhutaṅgo. Sesapadesupi eseva nayo.

Āraññiko (sống ở rừng là phận sự): người thọ trì hạng cư ngụ ở rừng. Cả những từ còn lại  cũng có cách thức như thế.

  1. no ca saṃsādentīti na osādenti. sahetukañhi sakāraṇaṃ katvā pañhaṃ pucchituṃ vissajjitumpi asakkonto saṃsādeti nāma. evaṃ na karontīti attho. pavattinī hotīti nadīsotodakaṃ viya pavattati.
  2. Và không ngừng nghỉ (no ca saṃsādenti): gồm không xung đột lẫn nhau. Thật vậy hạng người có khả năng hỏi vấn đề làm cho có nhân có quả gọi là không xung đột lẫn nhau. Có nghĩa là các Tỳ khưu không nói như vậy. Được vận hành (pavattinī hoti): được vận hành giống như dòng chảy trong dòng sông.
  3. yāya vihārasamāpattiyāti yāya lokiyāya vihārasamāpattiyā, yāya lokuttarāya vihārasamāpattiyā.
  4. yāya vihārasamāpattiyā (bằng sự an trú và chứng đạt nào?): Bằng sự an trú và chứng đạt là Hiệp thế hoặc Siêu thế nào?

♦ 339. sādhu sādhu sāriputtāti ayaṃ sādhukāro ānandattherassa dinno. sāriputtattherena pana saddhiṃ bhagavā ālapati. esa nayo sabbattha. yathā taṃ ānandovāti yathā ānandova sammā byākaraṇamāno byākareyya, evaṃ byākataṃ ānandena attano anucchavikameva, ajjhāsayānurūpameva byākatanti attho. ānandatthero hi attanāpi bahussuto, ajjhāsayopissa evaṃ hoti — “aho vata sāsane sabrahmacārī bahussutā bhaveyyun”ti.

Lành thay, lành thay, Sārīputta: lời khen ngợi này đức Thế Tôn ban cho Trưởng lão Ānanda, đức Thế Tôn thuyết cùng Trưởng lão Sārīputta. Ở mọi chỗ cũng theo cách thức này. yathā taṃ ānando (Này Ānanda…có thể trả lời theo điều đó) nghĩa là Trưởng lão Ānanda khi trả lời chân chánh phải trả lời như thế nào, trả lời như thế đó. Có nghĩa là Trưởng lão Ānanda trả lời theo sự phù hợp, là sự thích hợp theo khuynh hướng của bản thân. Thật vậy, chính bản thân Trưởng lão Ānanda là bậc đa văn, dẫu khuynh hướng của Ngài được thiết lập như vậy – “Ồ quả thật Phạm hạnh trong Tôn giáo có thể trở thành đa văn.”

kasmā? bahussutassa hi kappiyākappiyaṃ sāvajjānavajjaṃ, garukalahukaṃ satekicchātekicchaṃ pākaṭaṃ hoti. bahussuto uggahitabuddhavacanaṃ āvajjitvā imasmiṃ ṭhāne sīlaṃ kathitaṃ, imasmiṃ samādhi, imasmiṃ vipassanā, imasmiṃ maggaphalanibbānānīti sīlassa āgataṭṭhāne sīlaṃ pūretvā, samādhissa āgataṭṭhāne samādhiṃ pūretvā vipassanāya āgataṭṭhāne vipassanāgabbhaṃ gaṇhāpetvā maggaṃ bhāvetvā phalaṃ sacchikaroti. tasmā therassa evaṃ ajjhāsayo hoti — “aho vata sabrahmacārī ekaṃ vā dve vā tayo vā cattāro vā pañca vā nikāye uggahetvā āvajjantā sīlādīnaṃ āgataṭṭhānesu sīlādīni paripūretvā anukkamena maggaphalanibbānāni sacchikareyyun”ti. sesavāresupi eseva nayo.

Tại sao? Bởi vì những thứ thích hợp hoặc không thích hợp, những thứ có lỗi lầm hoặc không có lỗi lầm, tội nặng hoặc tội nhẹ, giải quyết được hoặc không thể giải quyết, xuất hiện nơi vị Tỳ khưu đa văn. Vị Tỳ khưu đa văn suy xét lời dạy của đức Phật mà bản thân đã học, nghĩ rằng ‘giới đã được nói ở vị trí này, định đã được nói ở chỗ này, minh sát đã được nói ở chỗ này, Đạo-Quả và Niết bàn đã được nói ở chỗ này, thực hành giới ở vị trí đi đến của giới, thực hành định ở vị trí đi đến của định, làm cho minh sát được diễn tiến ở vị trí đã đến của minh sát, sau khi tu tập Đạo, thực hành để chứng ngộ Quả. Vì thế, khuynh hướng của Trưởng lão như vậy – “Ồ quả thật bạn đồng Phạm hạnh của ta học tập một, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm Nikāya rồi suy xét, thực hành giới v.v, ở nơi đến của giới v.v, có thể (thực hành) chứng ngộ Đạo-Quả và Niết bàn theo tuần tự.” Những từ còn lại cũng theo cách thức tương tự.

  1. āyasmā hi revato jhānajjhāsayo jhānābhirato, tasmāssa evaṃ hoti — “aho vata sabrahmacārī ekikā nisīditvā kasiṇaparikammaṃ katvā aṭṭha samāpattiyo nibbattetvā jhānapadaṭṭhānaṃ vipassanaṃ vaḍḍhetvā lokuttaradhammaṃ sacchikareyyun”ti. tasmā evaṃ byākāsi.

Thật vậy, Tôn giả Revata hài lòng trong thiền, hoan hỷ trong thiền, vì thế Ngài có suy nghĩ như sau: “Ồ, bạn đồng Phạm hạnh của ta quả thật đã ngồi một mình, thực hành sự chuẩn bị biến xứ kasiṇa, làm phát sanh tám thiền chứng, tu tập minh sát có thiền định làm nền tảng, có thể chứng ngộ Pháp Siêu thế. Vì thế, cho nên mới nói như thế.

  1. āyasmā anuruddho dibbacakkhuko, tassa evaṃ hoti — “aho vata sabrahmacārī ālokaṃ vaḍḍhetvā dibbena cakkhunā anekesu cakkavāḷasahassesu cavamāne ca upapajjamāne ca satte disvā vaṭṭabhayena cittaṃ saṃvejetvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā lokuttaradhammaṃ sacchikareyyun”ti. tasmā evaṃ byākāsi.

Tôn giả Anuruddha có thiên nhãn, Ngài có suy nghĩ như vầy – “Ôi, quả thật bạn đồng Phạm hạnh đã tu tập Āloka-kasiṇa (biến xứ ánh sáng), nhìn thấy chúng sanh đang tử và tái sinh trong hàng ngàn vũ trụ bằng thiên nhãn, làm cho tâm bị khuấy động bởi sự sợ hãi trong vòng, sau khi tu tập minh sát, có thể làm tác chứng Pháp Siêu thế”. Vì thế, mới nói như vậy.

  1. āyasmā mahākassapo dhutavādo, tassa evaṃ hoti — “aho vata sabrahmacārī dhutavādā hutvā dhutaṅgānubhāvena paccayataṇhaṃ milāpetvā aparepi nānappakāre kilese dhunitvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā lokuttaradhammaṃ sacchikareyyun”ti. tasmā evaṃ byākāsi.

Tôn giả Mahākassapa là vị thuyết về hạnh từ khước, Ngài có suy nghĩ như vầy – “Ồ, quả thật bạn đồng Phạm hạnh của ta là vị thuyết về hạnh từ khước, đã làm cho tham ái cùng với các duyên trợ khô héo bởi oai lực của pháp giũ bỏ, đã diệt tận phiền não bằng nhiều phương diện khác nhau, nói cách khác tu tập minh sát có thể tác chứng Pháp Siêu thế.” Vì thế, mới nói như vậy.

  1. āyasmā mahāmoggallāno samādhipāramiyā matthakaṃ patto, sukhumaṃ pana cittantaraṃ khandhantaraṃ dhātvantaraṃ āyatanantaraṃ jhānokkantikaṃ ārammaṇokkantikaṃ aṅgavavatthānaṃ ārammaṇavavatthānaṃ aṅgasaṅkanti ārammaṇasaṅkanti ekatovaḍḍhanaṃ ubhatovaḍḍhananti ābhidhammikadhammakathikasseva pākaṭaṃ. anābhidhammiko hi dhammaṃ kathento — “ayaṃ sakavādo ayaṃ paravādo”ti na jānāti.

Tôn giả Mahāmoggallāna tận cùng tính chất trọn vẹn của định, còn những thứ vi tế là tuần tự tâm, tuần tự uẩn, tuần tự giới, tuần tự xứ, việc nhập thiền, việc đi vào các đối tượng, xác định các chi phần, xác định đối tượng, việc cắt đứt chi phần, việc cắt đứt các đối tượng, phát triển một phần, phát triển hai phần như thế, mới hiện hữu cùng vị học tập Abhidhamma. Người không học Abhidhamma khi nói Pháp sẽ không biết rằng đây là sakavāda (tự thuyết: quan điểm của mình), sẽ nói tuần tự Pháp bị lệch lạc.

sakavādaṃ dīpessāmīti paravādaṃ dīpeti, paravādaṃ dīpessāmīti sakavādaṃ dīpeti, dhammantaraṃ visaṃvādeti. ābhidhammiko sakavādaṃ sakavādaniyāmeneva, paravādaṃ paravādaniyāmeneva dīpeti, dhammantaraṃ na visaṃvādeti. tasmā therassa evaṃ hoti — “aho vata sabrahmacārī ābhidhammikā hutvā sukhumesu ṭhānesu ñāṇaṃ otāretvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā lokuttaradhammaṃ sacchikareyyun”ti. tasmā evaṃ byākāsi.

Còn vị học Abhidhamma thuyết giảng sakavāda (tự thuyết) với sakavāda chắc chắn, hoặc paravāda (tha thuyết: quan điểm của người khác) bằng paravāda chắc chắn, không nói tuần tự Pháp sai lạc. Vì thế, Trưởng lão có suy nghĩ như vầy: “Ồ, quả thật bạn đồng Phạm hạnh là học giả Abhidhamma, làm cho thiền chìm sâu ở chỗ vi tế, sau khi tu tập minh sát, có thể chứng ngộ Pháp Siêu thế.” Vì thế, mới nói như vậy.

  1. āyasmā sāriputto paññāpāramiyā matthakaṃ patto, paññavāyeva ca cittaṃ attano vase vattetuṃ sakkoti, na duppañño. duppañño hi uppannassa cittassa vase vattetvā ito cito ca vipphanditvāpi katipāheneva gihibhāvaṃ patvā anayabyasanaṃ pāpuṇāti. tasmā therassa evaṃ hoti — “aho vata sabrahmacārī acittavasikā hutvā cittaṃ attano vase vattetvā sabbānassa visevitavipphanditāni bhañjitvā īsakampi bahi nikkhamituṃ adentā vipassanaṃ vaḍḍhetvā lokuttaradhammaṃ sacchikareyyun”ti. tasmā evaṃ byākāsi.

Tôn giả Sāriputta đạt đến sự tận cùng tính chất trọn vẹn của trí tuệ, có thể làm cho tâm được vận hành theo mãnh lực của chính nó bởi trí tuệ, người có tuệ yếu kém thì không thể. Thật vậy, người có trí tuệ yếu kém vận hành theo mãnh lực của tâm sanh khởi, đã tranh đấu theo phía này và phía kia, sau 2-3 đã hoàn tục trở thành người cư sĩ, cảm nghiệm sự tiêu tan không phải lợi ích. Vì thế, Trưởng lão mới có suy nghĩ rằng: “Ồ, quả thật bạn đồng Phạm hạnh không vận hành theo mãnh lực của tâm, khiến tâm vận hành theo mãnh lực của chính nó, sự bồn chồn và sự bực tức của toàn bộ tâm không thoát ra ngoài dầu chút ít. Sau khi tu tập minh sát, có thể tác chứng Pháp Siêu thế.” Vì thế, mới nói như vậy.

  1. sabbesaṃ vo, sāriputta, subhāsitaṃ pariyāyenāti sāriputta, yasmā saṅghārāmassa nāma bahussutabhikkhūhipi sobhanakāraṇaṃ atthi, jhānābhiratehipi, dibbacakkhukehipi, dhutavādehipi, ābhidhammikehipi, acittavasikehipi sobhanakāraṇaṃ atthi. tasmā sabbesaṃ vo subhāsitaṃ pariyāyena, tena tena kāraṇena subhāsitameva, no dubbhāsitaṃ. apica mamapi suṇāthāti apica mamapi vacanaṃ suṇātha. na tāvāhaṃ imaṃ pallaṅkaṃ bhindissāmīti na tāva ahaṃ imaṃ caturaṅgavīriyaṃ adhiṭṭhāya ābhujitaṃ pallaṅkaṃ bhindissāmi, na mocessāmīti attho.
  2. Sabbesaṃ vo, sāriputta, subhāsitaṃ pariyāyenā (Này Sārīputta, lời nói của các vị là lời khéo nói với pháp môn…): Này Sārīputta, nguyên nhân của sự xinh đẹp bởi các Tỳ khưu, vị hoan hỷ trong thiền, vị đạt được thiên nhãn, vị chú tâm tu hạnh đầu đà, là vị học giả Abhidhamma, vị không diễn ra theo mãnh lực của tâm, đối với tu viện dành cho Hội Chúng. Vì thế, lời nói của các vị là lời khéo nói bởi pháp môn, là lời khéo nói bởi nhân đó không có những lời không khéo nói. Apica mamapi suṇātha (nhưng các vị hãy lắng nghe lời của Ta): hơn nữa, các ngài hãy lắng nghe lời của ta. Na tāvāhaṃ imaṃ pallaṅkaṃ bhindissāmi (Ta sẽ không từ bỏ tư thế kiết-già đến chừng ấy): Ta đã thiết lập sự tinh tấn có 4 yếu tố này, sẽ không làm hại, không từ bỏ tư thế ngồi kiết già đến chừng ấy.

idaṃ kira bhagavā paripākagate ñāṇe rajjasiriṃ pahāya katābhinikkhamano anupubbena bodhimaṇḍaṃ āruyha caturaṅgavīriyaṃ adhiṭṭhāya aparājitapallaṅkaṃ ābhujitvā daḷhasamādāno hutvā nisinno tiṇṇaṃ mārānaṃ matthakaṃ bhinditvā paccūsasamaye dasasahassilokadhātuṃ unnādento sabbaññutaññāṇaṃ paṭivijjhi, taṃ attano mahābodhipallaṅkaṃ sandhāya evamāha. apica pacchimaṃ janataṃ anukampamānopi paṭipattisāraṃ puthujjanakalyāṇakaṃ dassento evamāha.

Kể rằng đức Thế Tôn từ bỏ sự vinh hiển của hoàng gia này với trí tuệ chín muồi, đã thực hành sự xuất ly, đi đến khuôn viên của cội Bồ Đề theo tuần tự, đã thiết lập sự tinh tấn có 4 yếu tố, ngồi kiết già là việc bất chiến bại, có trái tim kiến cố, rửa sạch bộ não của cả 3 ác ma, làm cho mười ngàn thế giới rúng động, thấu triệt Toàn giác trí vào thời gian gần sáng. Đức Thế Tôn muốn đề cập đến bảo tọa dưới cội đại thọ Bồ đề của Ngài mới nói như vậy. Hơn nữa, đức Thế Tôn dẫu vì lòng bi mẫn (với) hàng hậu sau, tuyên thuyết đến cốt lõi Pháp hành, phàm nhân ngu si mới nói như vậy.

passati hi bhagavā — “anāgate evaṃ ajjhāsayā kulaputtā iti paṭisañcikkhissanti, ‘bhagavā mahāgosiṅgasuttaṃ kathento idha, sāriputta, bhikkhu pacchābhattaṃ … pe … evarūpena kho, sāriputta, bhikkhunā gosiṅgasālavanaṃ sobheyyāti āha, mayaṃ bhagavato ajjhāsayaṃ gaṇhissāmā’ti pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantā caturaṅgavīriyaṃ adhiṭṭhāya daḷhasamādānā hutvā ‘arahattaṃ appatvā imaṃ pallaṅkaṃ na bhindissāmā’ti samaṇadhammaṃ kātabbaṃ maññissanti,

Thật vậy, đức Thế Tôn thấy rằng – “Trong thời vị lai, thiện nam tử có khuynh hướng như vậy phân biệt rõ nhìn thấy bằng cách này. ‘Đức Thế Tôn khi thuyết Đại Kinh Gosiṅga, mới thuyết rằng này Sārīputta, Tỳ khưu trong Giáo Pháp này sau bữa ăn trưa…nt…này Sārīputta khu rừng Gosiṅga trở nên chói sáng bởi vị Tỳ khưu như vậy.” Chư Tỳ khưu nghĩ rằng: “Chúng tôi sẽ nắm lấy khuynh hướng của đức Thế Tôn, quay trở lại đi khất thực sau khi thọ dụng vật thực, thiết lập sự tinh tấn có 4 yếu tố có tâm vững chắc, sẽ nghĩ rằng Sa-môn Pháp mà tự thân cần phải làm ‘Chúng ta vẫn chưa đắc quả A-ra-hán, sẽ không rời khỏi thế ngồi kiết già này.”

te evaṃ paṭipannā katipāheneva V.2.155 jātijarāmaraṇassa antaṃ karissantī”ti, imaṃ pacchimaṃ janataṃ anukampamāno paṭipattisāraṃ puthujjanakalyāṇakaṃ dassento evamāha. evarūpena kho, sāriputta, bhikkhunā gosiṅgasālavanaṃ sobheyyāti, sāriputta, evarūpena bhikkhunā nippariyāyeneva gosiṅgasālavanaṃ sobheyyāti yathānusandhināva desanaṃ niṭṭhapesīti.

Vị Tỳ khưu đó đã thực hành như vậy, sẽ làm tận cùng của sự sanh, sự già và sự chết chỉ sau ít ngày. Đức Thế Tôn vì lòng bi mẫn cho hàng hậu bối, thuyết giảng điều cốt lõi Pháp thực hành cho hàng phàm phu ngu si mới thuyết như vậy. Evarūpena kho, sāriputta, bhikkhunā gosiṅgasālavanaṃ sobheyya (Này Sariputta, vị Tỳ khưu như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga): Khu rừng Gosiṅgasāla có thể trở nên chói sáng bởi vị Tỳ khưu như vậy. Kết thúc Pháp thoại bằng sự liên kết này.

 Đại Kinh Rừng Sừng Bò Kết Thúc