Kinh số 31 – Giải Thích Tiểu Kinh Rừng Sừng Bò

(Cūḷahatthipadopasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Tiểu Kinh Rừng Sừng Bò

  1. evaṃ me sutanti cūḷagosiṅgasuttaṃ. tattha nātike viharatīti nātikā nāma ekaṃ taḷākaṃ nissāya dvinnaṃ cūḷapitimahāpitiputtānaṃ dve gāmā, tesu ekasmiṃ gāme. giñjakāvasatheti iṭṭhakāmaye āvasathe. ekasmiṃ kira samaye bhagavā mahājanasaṅgahaṃ karonto vajjiraṭṭhe cārikaṃ caramāno nātikaṃ anuppatto. nātikavāsino manussā bhagavato mahādānaṃ datvā dhammakathaṃ sutvā pasannahadayā, “satthu vasanaṭṭhānaṃ karissāmā”ti mantetvā iṭṭhakāheva bhittisopānatthambhe vāḷarūpādīni dassento pāsādaṃ katvā sudhāya limpitvā mālākammalatākammādīni niṭṭhāpetvā bhummattharaṇamañcapīṭhādīni paññapetvā satthu niyyātesuṃ. aparāparaṃ panettha manussā bhikkhusaṅghassa rattiṭṭhānadivāṭṭhānamaṇḍapacaṅkamādīni kārayiṃsu. iti so vihāro mahā ahosi. taṃ sandhāya vuttaṃ “giñjakāvasathe”ti.

[325] Tiểu Kinh Rừng Sừng Bò được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, nātike viharati (cư trú ở trong làng Nātika): sống cư trú ở gần hồ một hồ nước tên là Nādika trong một ngôi làng nào đó, trong số hai ngôi làng của con trai của cả hai là chú và bác. Được xây dựng bằng gạch (giñjakāvasathe): chỗ cư ngụ được làm bằng gạch. Kể rằng, một thời đức Thế Tôn khi Ngài thực hiện việc nhiếp phục đại chúng đã đi du hành ở xứ Vajji đi đến làng Nātika. Người dân xứ Nātika đã cúng dường đến đức Thế Tôn, sau khi nghe thuyết giảng Giáo Pháp, có tâm (trở nên) tịnh tín, họ bàn luận với nhau rằng “chúng ta sẽ xây dựng một trú xứ để cúng dường đến bậc Đạo Sư.” mới cho xây một biểu tượng hình con rắn v.v. Các bức tường và cột nhà đều được làm bằng gạch, Kiến tạo một lâu lâu đài trát vôi trắng, đã được hoàn thành (trang trí) bằng với những tràng hoa và dây leo v.v, được trải tấm trải giường và ghế v.v. rồi dâng đến bậc Đạo Sư. Sau đó, những người dân làng ở nơi này xây dựng chỗ nghỉ ngơi vào ban đêm, chỗ nghỉ ngơi vào ban ngày, lều vải và chỗ kinh hành v.v, để cúng dường đến chư Tăng. Tịnh xá đó đã trở thành đại tịnh xá bởi cách ấy. Ngài có ý muốn nói đến tịnh xá đó mới nói rằng “Giñjakāvasathe (ở tại Giñjakāvasatha)

gosiṅgasālavanadāyeti tattha ekassa jeṭṭhakarukkhassa khandhato gosiṅgasaṇṭhānaṃ hutvā viṭapaṃ uṭṭhahi, taṃ rukkhaṃ upādāya sabbampi taṃ vanaṃ gosiṅgasālavananti saṅkhaṃ gataṃ. dāyoti avisesena araññassetaṃ nāmaṃ. tasmā gosiṅgasālavanadāyeti gosiṅgasālavanāraññeti attho. viharantīti sāmaggirasaṃ anubhavamānā viharanti. imesañhi kulaputtānaṃ uparipaṇṇāsake puthujjanakālo kathito, idha khīṇāsavakālo. tadā hi te laddhassādā laddhapatiṭṭhā adhigatapaṭisambhidā khīṇāsavā hutvā sāmaggirasaṃ anubhavamānā tattha vihariṃsu. taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.

Trong rừng Gosiṅga (rừng sừng bò) có nhiều cây sa-la: nhánh cây có hình dáng như hai cái sừng của con bò chẻ ra từ một thân cây lớn trong khu rừng đó, toàn bộ khu rừng đó mới được gọi là Gosiṅgasālavana đi theo tên gọi (dựa vào hình dáng) của cây đó. Dāyo này là tên gọi của khu rừng không có sự khác biệt bởi vì từ gosiṅgasālavanadāya có nghĩa rằng “trong khu rừng gọi là khu rừng sừng bò (Gosiṅgasālavana). Viharanti (cư trú): tận hưởng sự hài hòa. Thời gian thiện nam tử này vẫn còn là thường nhân ngài đã nói trong sớ giải Uparipaṇṇāsaka. Ở đây, nơi đến thời gian ngài trở thành bậc lậu tận. Thật vậy, trong thời gian đó thiện nam tử có được sự hài lòng, có được nơi nương nhờ, chứng đắc tuệ phân tích trở thành bậc thánh lậu tận, sống hài hòa ở tại nơi đó.

yena gosiṅgasālavanadāyo tenupasaṅkamīti dhammasenāpati-mahāmoggallānattheresu vā asītimahāsāvakesu V.2.136 vā, antamaso dhammabhaṇḍāgārikāanandattherampi kañci anāmantetvā sayameva pattacīvaraṃ ādāya anīkā nissaṭo hatthī viya, yūthā nissaṭo kāḷasīho viya M.2.139, vātacchinno valāhako viya ekakova upasaṅkami. kasmā panettha bhagavā sayaṃ agamāsīti? tayo kulaputtā P.2.236 sāmaggirasaṃ anubhavantā viharanti, tesaṃ paggaṇhanato, pacchimajanataṃ anukampanato dhammagarubhāvato ca. evaṃ kirassa ahosi — “ahaṃ ime kulaputte paggaṇhitvā ukkaṃsitvā paṭisanthāraṃ katvā dhammaṃ nesaṃ desessāmī”ti. evaṃ tāva paggaṇhanato agamāsi. aparampissa ahosi — “anāgate kulaputtā sammāsambuddho samaggavāsaṃ vasantānaṃ santikaṃ sayaṃ gantvā paṭisanthāraṃ katvā dhammaṃ kathetvā tayo kulaputte paggaṇhi, ko nāma samaggavāsaṃ na vaseyyāti samaggavāsaṃ vasitabbaṃ maññamānā khippameva dukkhassantaṃ karissantī”ti. evaṃ pacchimajanataṃ anukampanatopi agamāsi. buddhā ca nāma dhammagaruno honti, so ca nesaṃ dhammagarubhāvo rathavinīte āvikatova. iti imasmā dhammagarubhāvatopi dhammaṃ paggaṇhissāmīti agamāsi.

Ngài đi đến khu rừng sừng bò ấy (yena gosiṅgasālavanadāyo tenupasaṅkami): đức Thế Tôn đã không nói bất cứ điều gì về vị Tướng Quân Chánh Pháp, Trưởng lão Moggallāna, hay tám mươi đại Thánh thinh văn, đại đệ tử. Cuối cùng, ngay cả Trưởng lão Ānanda, vị thủ kho tàng Pháp bảo, tự mình cầm lấy y bát và y phục tương tự như con voi rút lui khỏi kẻ thù, giống như loài sư tử rời khỏi đàn, giống như vầng mây trôi theo làn gió. Tự mình Ngài đã vào như thế này. Tại sao? Đức Thế Tôn đã đích thân đến đây. Đáp rằng ba vị thiện nam tử sẽ sống hài hòa. Bởi vì Ngài tán dương những thiện nam tử đó bởi vì Ngài sẽ nhiếp phục những người hậu bối và vì sức nặng của Giáo Pháp. Kể rằng đức Thế Tôn đã suy nghĩ như vầy: “Ta sẽ tán dương những thiện nam tử này, tỏ vẻ thân thiện thuyết giảng Giáo Pháp cùng những thiện nam tử ấy mới đi đến. Đức Phật lại khởi lên suy nghĩ rằng: “Trong thời vị lai những thiện nam tử (sẽ) quan trọng việc nên sống hội họp với nhau rằng ‘bậc Chánh Đẳng Chánh Giác tự mình ngài đến trú xứ của những thiện nam tử sống hội họp với nhau, tỏ vẻ niềm nở, thuyết giảng Giáo Pháp, tán dương ba thiện nam tử, ai không sống hòa hợp với nhau, diệt tận cùng hết khổ đau nhanh chóng,” nên ngài mới đi cũng chỉ vì thương tưởng cho những người hậu sanh. Và đức Phật là người tôn kính Giáo Pháp, cũng sự tôn kính trong Giáo Pháp của chư Phật đã đến trong Kinh Rathavinīta, bởi thế ngài đã nghĩ rằng: Ta sẽ tán dương Giáo Pháp, thậm chí vì sức nặng trong Giáo Pháp này” nên ngài đã đi.

dāyapāloti araññapālo. so taṃ araññaṃ yathā icchiticchitappadesena manussā pavisitvā tattha pupphaṃ vā phalaṃ vā niyyāsaṃ vā dabbasambhāraṃ vā na haranti, evaṃ vatiyā parikkhittassa tassa araññassa yojite dvāre nisīditvā taṃ araññaṃ rakkhati, pāleti. tasmā “dāyapālo”ti vutto. attakāmarūpāti attano hitaṃ kāmayamānasabhāvā hutvā viharanti. yo hi imasmiṃ sāsane pabbajitvāpi vejjakammadūtakammapahiṇagamanādīnaṃ vasena ekavīsatianesanāhi jīvikaṃ kappeti, ayaṃ na attakāmarūpo nāma. yo pana imasmiṃ sāsane pabbajitvā ekavīsatianesanaṃ pahāya catupārisuddhisīle patiṭṭhāya buddhavacanaṃ uggaṇhitvā sappāyadhutaṅgaṃ adhiṭṭhāya aṭṭhatiṃsāya ārammaṇesu cittaruciyaṃ kammaṭṭhānaṃ gahetvā gāmantaṃ pahāya araññaṃ pavisitvā samāpattiyo nibbattetvā vipassanāya kammaṃ kurumāno viharati, ayaṃ attakāmo nāma. tepi tayo kulaputtā evarūpā ahesuṃ. tena vuttaṃ — “attakāmarūpā viharantī”ti.

Dāyapālo dịch là người bảo vệ rừng, người bảo vệ rừng ấy ngồi bảo vệ, hộ trì ở cánh cửa rừng mà vị ấy đã rào xung quanh lại mà người dân của xứ sở đó đi vào thẳng nơi mà vị ấy muốn, không thể lấy hoa, trái cây, nhựa cây hoặc những cây gỗ và vật liệu ở đó đi ra ngoài. Vì thế, ngài nói rằng ‘người bảo vệ rừng’. Attakāmarūpā (người mong muốn lợi ích cho bản thân): người mong muốn tự ngã là thực tính. Thật vậy, người nào dầu đã xuất gia trong Tôn giáo này, nuôi mạng bằng 21 việc làm không chân chánh, như làm nghề thầy thuốc và làm nghề đưa tin v.v, Vị tỳ khưu này không được gọi là người mong muốn lợi ích cho bản thân. Còn người nào đã xuất gia trong Tôn giáo này, đã từ bỏ việc nuôi mạng với 21 việc làm chân chánh, vững trú trong Tứ Thanh Tịnh Giới, học tập Phật ngôn, phát nguyện hành Pháp hạnh đầu đà phụ hợp, thọ trì Nghiệp Xứ mà (bản thân) ưa thích trong 38 đối tượng, rời khỏi nhà đi vào trong làm cho thiền chứng được, du hành thực hành Minh Sát Nghiệp Xứ, đây gọi là người mong muốn lợi ích cho bản thân. Cả 3 vị thiện nam tử ấy đều trở thành như thế. Bởi vì thế ngài đã nói rằng: “người mong muốn lợi ích cho bản thân”.

mā tesaṃ aphāsumakāsīti tesaṃ mā aphāsukaṃ akāsīti bhagavantaṃ vāresi. evaṃ kirassa ahosi — “ime kulaputtā samaggā viharanti, ekaccassa ca gataṭṭhāne bhaṇḍanakalahavivādā vattanti, tikhiṇasiṅgo caṇḍagoṇo viya ovijjhanto vicarati, athekamaggena dvinnaṃ gamanaṃ na hoti, kadāci ayampi evaṃ karonto imesaṃ kulaputtānaṃ samaggavāsaṃ bhindeyya. pāsādiko ca panesa suvaṇṇavaṇṇo surasagiddho maññe, gatakālato paṭṭhāya paṇītadāyakānaṃ attano upaṭṭhākānañca vaṇṇakathanādīhi imesaṃ kulaputtānaṃ appamādavihāraṃ bhindeyya. vasanaṭṭhānāni cāpi etesaṃ kulaputtānaṃ nibaddhāni paricchinnāni tisso ca paṇṇasālā tayo caṅkamā tīṇi divāṭṭhānāni tīṇi mañcapīṭhāni. ayaṃ pana samaṇo mahākāyo vuḍḍhataro maññe bhavissati. so akāle ime kulaputte senāsanā vuṭṭhāpessati. evaṃ sabbathāpi etesaṃ aphāsu bhavissatī”ti. taṃ anicchanto, “mā tesaṃ aphāsukamakāsī”ti bhagavantaṃ vāresi.

Họ khẩn cầu đức Thế Tôn ‘xin Ngài đừng làm phiền đến 3 vị đó (mā tesaṃ aphāsumakāsi)’: đã ngăn chặn đức Thế Tôn. Kể rằng người bảo vệ rừng đã có suy nghĩ như vầy: “Những thiện nam tử này sống hòa thuận, sự cãi cọ, gây gỗ và tranh luận diễn ra ở một số người, cả hai không đi chung một hướng giống như con bò hung tợn có sừng sắc nhọn đang đi húc nhau. Thỉnh thoảng, ngay cả đức Phật này, khi thực hiện như vậy, có thể phá hủy sự sống hài hòa của những thiện nam tử này. Và có lòng tịnh tín, có màu da như màu vàng rồng, nhìn thấy sẽ mê thích, có thể làm phá huỷ sự sống không phóng dật của những thiện nam tử này, với việc nói lời tán thán người cúng dường vật thực thượng hạng và thị giả kể đến mình kẻ từ khi Ngài đi đến, ngay cả chỗ ở của những thiện nam tử này, được xác định cụ thể (có hạn) là: 3 ngôi nhà lá, 3 chỗ đi kinh hành, 3 phòng nghỉ trưa, 3 giường và 3 ghế. Còn vị Sa-môn này có thân to trông già hơn và sẽ trục xuất những thiện nam tử này ra khỏi trú xứ vào thời điểm không thích hợp, sự phiền nhiễu sẽ xảy đến đối với các thiện nam tử. Cả ở mọi nơi theo cách này, vị ấy không mong muốn điều đó. Vì thế mới khẩn cầu đức Thế Tôn rằng “Ngài đừng quấy nhiễu đến những thiện nam tử đó.”

kiṃ panesa jānanto vāresi, ajānantoti? ajānanto. kiñcāpi hi tathāgatassa paṭisandhiggahaṇato paṭṭhāya dasasahassacakkavāḷakampanādīni pāṭihāriyāni pavattiṃsu, araññavāsino pana dubbalamanussā sakammappasutā tāni sallakkhetuṃ na sakkonti. sammāsambuddho ca nāma yadā anekabhikkhusahassaparivāro byāmappabhāya asītianubyañjanehi dvattiṃsamahāpurisalakkhaṇasiriyā ca buddhānubhāvaṃ dassento vicarati, tadā ko esoti apucchitvāva jānitabbo hoti. tadā pana bhagavā sabbampi taṃ buddhānubhāvaṃ cīvaragabbhena paṭicchādetvā valāhakagabbhena paṭicchanno puṇṇacando viya sayameva pattacīvaramādāya aññātakavesena agamāsi. iti naṃ ajānantova dāyapālo nivāresi.

Người bảo vệ rừng ấy biết mới ngăn cản hay không biết mới ngăn cản? Quả thật, kể từ việc chấp nhận sự tiếp nối (tái sanh) của Như Lai, điều phi thường làm cho mười ngàn vũ trụ thế giới rúng động v.v, đã được diễn ra, mặc dầu vậy người không có khả năng như người bảo vệ rừng, chỉ biết cố gắng làm việc, không thể nào biết được điều phi thường ấy được. Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác khi nào có nhiều nghìn vị Tỳ khưu tùy tùng du hành thuyết giảng về oai lực của đức Phật với hào quang khoảng 2 mét, với 80 vẻ đẹp phụ và với 32 tướng của bậc Đại Nhân, khi đó vị ấy hỏi rằng: “đây là ai? tôi có thể sẽ biết?”. Lúc ấy đức Phật che giấu toàn bộ oai lực của Phật bên trong chéo y, đích thân cầm bình bát và y phục, Ngài đi với hình tướng không ai có thể biết, giống như mặt trăng trong ngày rằm bị che phủ bởi đám mây. Người bảo vệ rừng không biết điều đó, mới ngăn cản bằng cách ấy.

etadavocāti thero kira mā samaṇāti dāyapālassa kathaṃ sutvāva cintesi — “mayaṃ tayo janā idha viharāma, aññe pabbajitā nāma natthi, ayañca dāyapālo pabbajitena viya saddhiṃ katheti, ko nu kho bhavissatī”ti divāṭṭhānato vuṭṭhāya dvāre ṭhatvā maggaṃ olokento bhagavantaṃ addasa. bhagavāpi therassa saha dassaneneva sarīrobhāsaṃ muñci, asītianubyañjanavirājitā byāmappabhā pasāritasuvaṇṇapaṭo viya virocittha. thero, “ayaṃ dāyapālo phaṇakataṃ āsivisaṃ gīvāya gahetuṃ hatthaṃ pasārento viya loke aggapuggalena saddhiṃ kathentova na jānāti, aññatarabhikkhunā viya saddhiṃ kathetī”ti nivārento etaṃ, “mā, āvuso dāyapālā”tiādivacanaṃ avoca.

Etadavoca (đã nói rằng): kể rằng Trưởng lão đã nghe lời nói của người bảo vệ rừng ‘đừng Sa-môn’ mới nghĩ rằng “chúng ta sống với nhau chỉ có 3 người ở đây, không có vị xuất gia nào khác, người bảo vệ rừng này nói chuyện giống như đang nói chuyện với vị xuất gia, sẽ là vị nào đây?” rời khỏi trú xứ vào ban ngày đứng ở cánh cổng nhìn ra đường đã thấy đức Thế Tôn, thậm chí Đức Thế Tôn cũng phát ra hào quang từ sắc thân của Ngài, cùng lúc đó Trưởng lão đã nhìn thấy một tia sáng được chiếu sáng bởi 80 tướng phụ rực rỡ tợ như miếng vàng được mở ra. Trưởng lão nghĩ rằng người bảo vệ rừng đã nói chuyện với một bậc tối thượng trong thế gian, vẫn không biết, nói chuyện như thể nói với bất kỳ một vì Tỳ khưu nào đó. như duỗi cánh tay để bắt con rắn độc đang phùng mang. Khi ngăn cản đã nói lời như sau: “này người bảo vệ rừng, ông đừng ngăn chặn đức Thế Tôn”.

tenupasaṅkamīti kasmā bhagavato paccuggamanaṃ akatvā upasaṅkami? evaṃ kirassa ahosi V.2.138 — “mayaṃ tayo janā samaggavāsaṃ vasāma, sacāhaṃ ekakova paccuggamanaṃ karissāmi, samaggavāso nāma na bhavissatī”ti piyamitte gahetvāva paccuggamanaṃ karissāmi. yathā ca bhagavā mayhaṃ piyo, evaṃ sahāyānampi me piyoti, tehi saddhiṃ paccuggamanaṃ kātukāmo sayaṃ akatvāva upasaṅkami. keci pana tesaṃ therānaṃ paṇṇasāladvāre caṅkamanakoṭiyā bhagavato āgamanamaggo hoti, tasmā thero tesaṃ saññaṃ dadamānova gatoti.

Đã đi lại gần (tenupasaṅkami): vì sao, không thực hiện việc tiếp đức Thế Tôn trước, rồi mới đến gặp (bạn đồng phạm hạnh) Tôn giả Nandiya và Tôn giả Kimila. Kể rằng Tôn giả Anuruddha có suy nghĩ như vầy: “Chúng ta ba người sẽ không có sự sống hòa thuận với nhau. (vì vậy) ta sẽ ra tín hiệu để các bạn yêu quý của ta thực hiện việc tiếp đón, đức Thế Tôn là nơi yêu quý của ta như thế nào, cũng là nơi yêu quý ngay cả những người bạn thân hữu của ta như thế đó, như vậy là người mong muốn thực hiện việc tiếp rước cùng với những người bạn thân hữu đó mới không đến gần thực hiện việc tiếp rước một mình. Còn một số vị thầy nói rằng: con đường là nơi mà đi đến của đức Thế Tôn, ở cuối chỗ đi kinh hành, gần cánh cửa ngôi nhà lá của vị trưởng lão ấy. Vì thế, mới ra dấu hiệu cho những vị Tỳ khưu đó.

abhikkamathāti ito āgacchatha. pāde pakkhālesīti vikasitapadumasannibhehi jālahatthehi maṇivaṇṇaṃ udakaṃ gahetvā suvaṇṇavaṇṇesu piṭṭhipādesu udakamabhisiñcitvā pādena pādaṃ ghaṃsanto pakkhālesi. buddhānaṃ kāye rajojallaṃ nāma na upalimpati, kasmā pakkhālesīti? sarīrassa utuggahaṇatthaṃ, tesañca cittasampahaṃsanatthaṃ. amhehi abhihaṭena udakena bhagavā pāde pakkhālesi, paribhogaṃ akāsīti tesaṃ bhikkhūnaṃ balavasomanassavasena cittaṃ pīṇitaṃ hoti, tasmā pakkhālesi. āyasmantaṃ anuruddhaṃ bhagavā etadavocāti so kira tesaṃ vuḍḍhataro.

Abhikkamatha: hãy đi đến đường đây. pāde pakkhālesi (rửa đôi bàn chân): Đức Thế Tôn đã nhận lấy nước màu ngọc ma-ni bằng đôi tay có mạng lưới tựa như đóa hoa Sen đang nở hoa, đổ nước vào sau cả hai chân có màu như vàng rồng, có màu như vàng, gọt rửa sạch bụi bẩn của đôi chân, bụi bẩn không thể làm dơ bẩn ở trên thân Phật. Tại sao ngài phải rửa (chân), bởi vì để điều tiết sự nóng lạnh ở trong cơ thể và nhằm mục đích làm cho các Tỳ khưu hân hoan, tâm các các vị ấy tràn ngập niềm vui bởi thọ hỉ mãnh liệt rằng: Đức Thế Tôn đã rửa đôi chân bằng nước tôi mang đến, vị ấy đã sử dụng nó như vậy. Đức Thế Tôn đã thuyết giảng với Tôn giả Anuruddha (āyasmantaṃ anuruddhaṃ bhagavā etadavoca), được biết rằng Tôn giả Anuruddha lớn tuổi hơn các vị còn lại.

♦ 326. tassa saṅgahe kate sesānaṃ katova hotīti theraññeva etaṃ kacci vo anuruddhātiādivacanaṃ avoca. tattha kaccīti pucchanatthe nipāto. voti sāmivacanaṃ. idaṃ vuttaṃ hoti — kacci anuruddhā tumhākaṃ khamanīyaṃ, iriyāpatho vo khamati? kacci yāpanīyaṃ, kacci vo jīvitaṃ yāpeti ghaṭiyati? kacci piṇḍakena na kilamatha, kacci tumhākaṃ sulabhapiṇḍaṃ, sampatte vo disvā manussā uḷuṅkayāguṃ vā kaṭacchubhikkhaṃ vā dātabbaṃ maññantīti bhikkhācāravattaṃ pucchati. kasmā? paccayena akilamantena hi sakkā samaṇadhammo kātuṃ, vattameva vā etaṃ pabbajitānaṃ. atha tena paṭivacane dinne, “anuruddhā, tumhe rājapabbajitā mahāpuññā, manussā tumhākaṃ araññe vasantānaṃ adatvā kassa aññassa dātabbaṃ maññissanti, tumhe pana etaṃ bhuñjitvā kiṃ nu kho migapotakā viya aññamaññaṃ saṅghaṭṭentā viharatha, udāhu sāmaggibhāvo vo atthī”ti sāmaggirasaṃ pucchanto, kacci pana vo, anuruddhā, samaggātiādimāha.

Trong khi thực hiện để hỗ trợ đối với Tôn giả Anuruddha ấy, và cũng thực hiện đối với những vị còn lại cũng vậy, vì thế đức Thế Tôn mới thuyết lời sau: “ Này các Anuruddha (Nandiya và Kimila) các ông có kham nhẫn chăng?” Trong các từ đó ‘kicci’ chỉ là phân từ được sử dụng với ý nghĩa câu hỏi. Từ ‘vo (các ông)’ là sở thuộc cách. Có lời giải thích rằng  đức Thế Tôn hỏi đến phận sự trì bình khất thực rằng: “Này các Anuruddha (Nandiya, Kimbila) các ông có kham nhẫn được chăng? Oai nghi của các ông kham nhẫn được chăng? Có thể chịu đựng được chăng, các ông có duy trì đời sống để vận hành liên tục chăng? Không khó khăn về đồ ăn khất thức chăng? (là) các ông có tìm kiếm được vật thực dễ dàng không? Nhân loại nhìn thấy các ông các ông đến tụ hội, mới suy tưởng muỗng cháo chua, phần thức ăn một muỗng (xứng đáng được cúng dường) chăng? Vì sao đức Thế Tôn lại hỏi như thế? Bởi vì vị xuất gia không gặp khó khăn trở ngại về bốn món vật dụng có thể thực hành Sa-môn Pháp, và hơn nữa đây là phận sự của bậc xuất gia. Khi ấy đức Thế Tôn sau khi nhận được câu trả lời của các Anuruddha để hỏi về ý vị hòa hợp rằng: “Này các Anuruddha, các ông sống có hòa thuận chăng…?

tattha khīrodakībhūtāti yathā khīrañca udakañca aññamaññaṃ saṃsandati, visuṃ na hoti, ekattaṃ viya upeti, kacci evaṃ sāmaggivasena ekattūpagatacittuppādā M.2.142 viharathāti pucchati. piyacakkhūhīti mettacittaṃ paccupaṭṭhapetvā olokanacakkhūni piyacakkhūni nāma. kacci tathārūpehi cakkhūhi aññamaññaṃ sampassantā viharathāti pucchati. tagghāti ekaṃsatthe nipāto. ekaṃsena V.2.139 mayaṃ, bhanteti vuttaṃ hoti. yathā kathaṃ panāti ettha yathāti nipātamattaṃ. kathanti kāraṇapucchā. kathaṃ pana tumhe evaṃ viharatha, kena kāraṇena viharatha, taṃ me kāraṇaṃ brūthāti vuttaṃ hoti. mettaṃ kāyakammanti mettacittavasena pavattaṃ kāyakammaṃ. āvi ceva raho cāti sammukhā ceva parammukhā ca. itaresupi eseva nayo.

Ở đó, khīrodakībhūta (giống như nước với sữa): nghĩa nước và sữa được hòa trộn chung với nhau, không thể tách ra được đạt đến sự đồng nhất như thế nào, hỏi rằng: “Các ống sống hòa thuận, giống như có tâm sanh (cittuppāda) đạt đến sự đồng nhất với nhau tương tự như thế đó chăng?” Với ánh mắt trìu mến (piyacakkhūhi) nghĩa là ánh mắt quan sát đã được trú vững bằng từ tâm được gọi là ánh mắt trìu mến. Hỏi rằng: “Các ông quan tâm chăm sóc bằng ánh mắt như vậy chăng? Taggha là một từ phân từ được sử dụng với ý nghĩa ‘đơn thuần’, như ngài đã nói “kính bạch Ngài, chúng con (sống) đơn thuần (hoà thuận với nhau). Yathā (thế nào) trong từ ‘yathā kathaṃ pana’ cũng chỉ là phân từ. Kathaṃ: hỏi đến nguyên nhân. Giải thích rằng các ông sống với nhau như thế bằng cách nào? sống vì lý do gì? các ông hãy nói nguyên nhân đo cho Ta biết. Hành động bằng thân gắn bó với từ tâm (mettaṃ kāyakammaṃ): hành động bằng thân được diễn ra với mãnh lực của tâm từ. Cả trước mặt lẫn sau lưng (āvi ceva raho cā): Cả ngay trước mặt và ở sau lưng. Từ còn lại có phương thức tương tự.

tattha sammukhā kāyavacīkammāni sahavāse labbhanti, itarāni vippavāse. manokammaṃ sabbattha labbhati. yañhi sahavasantesu ekena mañcapīṭhaṃ vā dārubhaṇḍaṃ vā mattikābhaṇḍaṃ vā bahi dunnikkhittaṃ hoti, taṃ disvā kenidaṃ vaḷañjitanti avaññaṃ akatvā attanā dunnikkhittaṃ viya gahetvā paṭisāmentassa paṭijaggitabbayuttaṃ vā pana ṭhānaṃ paṭijaggantassa sammukhā mettaṃ kāyakammaṃ nāma hoti. ekasmiṃ pakkante tena dunnikkhittaṃ senāsanaparikkhāraṃ tatheva nikkhipantassa paṭijaggitabbayuttaṭṭhānaṃ vā pana paṭijaggantassa parammukhā mettaṃ kāyakammaṃ nāma hoti. sahavasantassa pana tehi saddhiṃ madhuraṃ sammodanīyaṃ kathaṃ paṭisanthārakathaṃ sāraṇīyakathaṃ dhammīkathaṃ sarabhaññaṃ sākacchaṃ pañhapucchanaṃ pañhavissajjananti evamādikaraṇe P.2.240 sammukhā mettaṃ vacīkammaṃ nāma hoti. theresu pana pakkantesu mayhaṃ piyasahāyo nandiyatthero kimilatthero evaṃ sīlasampanno, evaṃ ācārasampannotiādiguṇakathanaṃ parammukhā mettaṃ vacīkammaṃ nāma hoti. mayhaṃ piyamitto nandiyatthero kimilatthero avero hotu, abyāpajjo sukhī hotūti evaṃ samannāharato pana sammukhāpi parammukhāpi mettaṃ manokammaṃ hotiyeva.

Ở đó, hành động bằng thân (thân nghiệp) và hành động bằng lời nói (khẩu nghiệp) ở trước mặt có được trong việc sống chung với nhau. Ngoài ra (hành động bằng thân và hành động bằng lời nói ở sau lưng) có được do sống tách biệt. Hành đồng bằng ý (ý nghiệp) có được ở mọi nơi. Thật vậy, khi sống chung với nhau thì giường ghế, hay vật dụng làm gỗ, hay vật dụng làm bằng đất sét cái một người bảo quản không tốt ở bên ngoài, khi nhìn thấy điều đó,  không được xem thường “cái này ai đã sử dụng” rồi cầm lấy đi cất, như thể bản thân không gìn giữ cẩn thận, hoặc đem sắp đặt ở vị cần được sắp đặt, đây được gọi là hành động bằng thân qua tâm từ ở trước mặt. Khi một người rời đi giữ sàng tọa và vật phụ tùng cất giữ không tốt, hoặc đi đến xem xét chỗ cần được xem xét gọi là hành động bằng thân qua tâm từ ở sau lưng. Khi sống cùng nhau: “trao đổi lời xã giao dịu ngọt, nói lời nói thân thiện, nói những điều đáng ghi nhớ, nói điều liên quan đến Pháp, hợp luật, hỏi vấn đề, trả lời vấn đề với các Trưởng lão” được gọi là hành động bằng lời nói qua tâm từ ở trước mặt trong trường hợp như vậy. Hơn nữa, khi Trưởng lão đã rời khỏi thì việc nói về đức hạnh như sau: “Trưởng lão Nandiya, Trưởng lão Kimila là những vị bạn hữu yêu quý của tôi, là những vị đã thành tựu về giới như vậy, thành tựu về lời nói như vậy” đây gọi là hành động bằng lời nói qua tâm từ ở sau lưng. Khi được hệ thống như vậy, mong Trưởng lão Nandiya, Trưởng lão Kilima là những người bạn yêu quý của ta, hãy là những vị không có oàn thù, hãy là người không làm tổn thương, hãy là người có sự an lạc gọi là hành động bằng lời nói qua tâm từ ở trước mặt và cả sau lưng.

nānā hi kho no, bhante, kāyāti kāyañhi piṭṭhaṃ viya mattikā viya ca omadditvā ekato kātuṃ na sakkā. ekañca pana maññe cittanti cittaṃ pana no hitaṭṭhena nirantaraṭṭhena aviggahaṭṭhena samaggaṭṭhena ekamevāti dasseti. kathaṃ panetaṃ sakaṃ cittaṃ nikkhipitvā itaresaṃ cittavasena vattiṃsūti? ekassa patte malaṃ uṭṭhahati, ekassa cīvaraṃ kiliṭṭhaṃ hoti, ekassa paribhaṇḍakammaṃ hoti. tattha yassa patte malaṃ uṭṭhitaṃ, tena mamāvuso, patte malaṃ uṭṭhitaṃ pacituṃ vaṭṭatīti vutte itare mayhaṃ cīvaraṃ kiliṭṭhaṃ dhovitabbaṃ, mayhaṃ paribhaṇḍaṃ kātabbanti avatvā araññaṃ pavisitvā dārūni āharitvā chinditvā pattakaṭāhe paribhaṇḍaṃ katvā tato paraṃ cīvaraṃ vā dhovanti, paribhaṇḍaṃ vā karonti. mamāvuso, cīvaraṃ kiliṭṭhaṃ dhovituṃ vaṭṭati, mama paṇṇasālā uklāpā paribhaṇḍaṃ kātuṃ vaṭṭatīti paṭhamataraṃ ārocitepi eseva nayo.

Bạch Thế Tôn, chúng con tuy khác thân (nānā hi kho no, bhante, kāyā) nghĩa là bất cứ ai cũng không thể làm thân (chúng con) hợp lại với nhau được, giống như nhào nặn bột và đất sét. Ekañca pana maññe cittaṃ (nhưng sự suy nghĩ của chúng con dường như là một): Ngài chỉ ra rằng còn đối với tâm của chúng con được gọi là đồng nhất, bởi ý nghĩa hợp nhau không đứt quãng, không xa rời nhau, đồng thuận với nhau. (Hỏi) những vị Tỳ khưu đó giữ tâm của chính mình thực hành theo mãnh lực tâm của vị còn lại được như thế nào? (Đáp) chất rỉ sét xuất hiện trong bình bát của một vị Tỳ khưu, y phục dơ bẩn của một vị Tỳ khưu, thực hiện làm sạch sàn nhà của một vị Tỳ khưu. Trong số những vị Tỳ khưu đó, chất rỉ sét xuất hiện ở bình bát của vì nào khi vị ấy nói rằng: “Này hiền giả, chất rỉ sét xuất hiện ở bình bát của tôi cần được lau chùi”, những vị còn lại không nói rằng: “Y phục của tôi bị dơ bẩn cần phải giặt”, (mà nói rằng) “sử dụng y phục của tôi để thực hiện”, (sau đó) đi vào rừng mang theo tấm vải cắt thành từng mảnh đặt lên trên bình bát, sau khi lau chùi bình bát, sau đó giặt y phục, làm đồ sử dụng. Khi bất kỳ vị Tỳ khưu nào nói rằng: “này hiền giả, y phục của tôi dơ bẩn cần được giặt, ngôi nhà lá của tôi bị hư hỏng cần được sửa chữa lại cũng theo cách thức tương tự.”

  1. sādhu sādhu, anuruddhāti bhagavā heṭṭhā na ca mayaṃ, bhante, piṇḍakena kilamimhāti vutte na sādhukāramadāsi. kasmā? ayañhi kabaḷīkāro āhāro nāma imesaṃ sattānaṃ apāyalokepi devamanussalokepi āciṇṇasamāciṇṇova. ayaṃ pana lokasannivāso yebhuyyena vivādapakkhando, apāyaloke devamanussalokepi ime sattā paṭiviruddhā eva, etesaṃ sāmaggikālo dullabho, kadācideva hotīti samaggavāsassa dullabhattā idha bhagavā sādhukāramadāsi. idāni tesaṃ appamādalakkhaṇaṃ pucchanto kacci pana vo, anuruddhātiādimāha. tattha voti nipātamattaṃ paccattavacanaṃ vā, kacci tumheti attho. amhākanti amhesu tīsu janesu. piṇḍāya paṭikkamatīti gāme piṇḍāya caritvā paccāgacchati. avakkārapātinti atirekapiṇḍapātaṃ apanetvā ṭhapanatthāya ekaṃ samuggapātiṃ dhovitvā ṭhapeti.

Lành thay, lành thay, các Anuruddha: khi vị Tỳ khưu đó nói ở bên dưới rằng Kính bạch đức Thế Tôn chúng con không khó nhọc trong việc trì bình khất thực, đức Thế Tôn không ban lời khen ngợi. Tại sao? Bởi vì những loại vật thực thô này của chúng sanh này đã từng thọ dụng xuyên suốt cả trong khổ cảnh và cả trong thế giới chư Thiên và thế giới nhân loại, còn đối với đời sống nhân loại bị thường xuyên đối nghịch. Chúng sanh này trái ý nhau cả trong khổ cảnh, cả trong thế giới chư Thiên và cả trong thế giới loài người. Thời điểm mà chúng sanh đó hòa thuận là vô cùng khó khăn, chỉ thỉnh thoảng thôi. Vì thế, đức Thế Tôn đã ban lời khen ngợi ở chỗ này, bởi vì sống hòa thuận là điều hiếm có. Bây giờ, khi hỏi trạng thái không phóng dật của các vị Tỳ khưu đó, mới thuyết lời bắt đầu như sau: “Các ông là người không phóng dật chăng?…” Ở đó, Từ ‘vo’ chỉ là một phân từ. Hơn nữa là chủ từ, đồng nghĩa với ‘kicci tumhe (các ông)’. Amhākaṃ là trong chúng tôi 3 người. piṇḍāya paṭikkamati (trở về từ việc đi khất thực): đi khất thực ở ngôi làng phía sau. Avakkārapātiṃ (một bát để bỏ đồ dư): rửa một bình bát đặt xuống, để mang những bình bát còn lại đi cất giữ.

yo pacchāti te kira therā na ekatova bhikkhācāraṃ pavisanti, phalasamāpattiratā hete. pātova sarīrappaṭijagganaṃ katvā vattappaṭipattiṃ pūretvā senāsanaṃ pavisitvā kālaparicchedaṃ katvā phalasamāpattiṃ appetvā nisīdanti. tesu yo paṭhamataraṃ nisinno attano kālaparicchedavasena paṭhamataraṃ uṭṭhāti; so piṇḍāya caritvā paṭinivatto bhattakiccaṭṭhānaṃ āgantvā jānāti — “dve bhikkhū pacchā, ahaṃ paṭhamataraṃ āgato”ti. atha pattaṃ pidahitvā āsanapaññāpanādīni katvā yadi patte paṭivisamattameva hoti, nisīditvā bhuñjati. yadi atirekaṃ hoti, avakkārapātiyaṃ pakkhipitvā pātiṃ pidhāya bhuñjati. katabhattakicco pattaṃ dhovitvā vodakaṃ katvā thavikāya osāpetvā pattacīvaraṃ gahetvā attano vasanaṭṭhānaṃ pavisati. dutiyopi āgantvāva jānāti — “eko paṭhamaṃ āgato, eko pacchato”ti. so sace patte bhattaṃ pamāṇameva hoti, bhuñjati. sace mandaṃ, avakkārapātito gahetvā bhuñjati. sace atirekaṃ M.2.144 hoti, avakkārapātiyaṃ pakkhipitvā pamāṇameva bhuñjitvā purimatthero viya vasanaṭṭhānaṃ pavisati. tatiyopi āgantvāva jānāti — “dve paṭhamaṃ āgatā, ahaṃ pacchato”ti. sopi dutiyatthero viya bhuñjitvā katabhattakicco pattaṃ dhovitvā vodakaṃ katvā thavikāya osāpetvā āsanāni ukkhipitvā paṭisāmeti; pānīyaghaṭe vā paribhojanīyaghaṭe vā avasesaṃ udakaṃ chaḍḍetvā ghaṭe nikujjitvā avakkārapātiyaṃ sace avasesabhattaṃ hoti, taṃ vuttanayena jahitvā pātiṃ dhovitvā paṭisāmeti; bhattaggaṃ sammajjati. tato kacavaraṃ chaḍḍetvā V.2.141 sammajjaniṃ ukkhipitvā P.2.242 upacikāhi muttaṭṭhāne ṭhapetvā pattacīvaramādāya vasanaṭṭhānaṃ pavisati. idaṃ therānaṃ bahivihāre araññe bhattakiccakaraṇaṭṭhāne bhojanasālāyaṃ vattaṃ. idaṃ sandhāya, “yo pacchā”tiādi vuttaṃ.

Người nào…trở về sau (yo pacchā): được biết rằng những vị Trưởng lão đó không đi trì bình khất thực cùng lúc, Trưởng lão ấy sau khi xuất khỏi quả của thiền chứng, tắm rửa sạch sẽ thân thể từ sáng sớm, thực hành nhiệm vụ, đi vào trú xứ xác định thời gian ngồi thể nhập thiền quả. Trong số các vị đó vị nào ngồi trước, đứng dậy trước. bằng việc xác định thời gian của bản thân, vị ấy đi khất thực trở về thọ dụng vật thực, vị ấy biết rằng – “Còn 2 vị ở đằng sau, tôi đến trước, và trong trường hợp đó, (vị ấy) sẽ sắp xếp bình bát, trải tọa cụ, v.v. nếu trong bình bát có vật thực vừa đủ, vị ấy ngồi thọ dụng, nếu (vật thực) còn dư thì để vào khay, đậy khay lại rồi (tiếp tục) thọ dụng. Làm phận sự hoàn tất, rửa bát, lau khô, đặt vào trong túi đựng, lấy bình bát và y phục trở về chỗ ở của mình. Dù vị thứ 2 đã đến sẽ biết được rằng – “vị này đã đến trước, vị này đến sau.” nếu trong bình bát có vật thực chỉ bằng chừng ấy vị ấy thọ dụng, nếu có ít thì lấy vật thực từ khay đựng (của vị trước) thọ dụng, nếu còn dư thì bỏ vào khay đựng chỉ bằng chừng ấy, đi trở về chỗ trú ngụ giống như vị trước. Khi vị thứ 3 quay trở về biết được rằng – “hai vị này về trước, ta trở về sau”. Ngay cả vị ấy làm tròn bổn phận giống như vị thứ 2 cũng đi rửa bình bát, lau khô, đặt vào trong túi đựng, lấy tọa cụ đem cất, đổ nước còn dư trong bình nước uống, hoặc trong bình nước sử dụng, rồi úp lại, nếu có vật thực còn dư ở khay đựng, (vị ấy) sẽ đem vật thực đó theo phương thức đã được trình bày, rửa khay đựng rồi đem cất vào kho, quét dọn nhà ăn. Sau đó đi đổ rác, đem cây chổi lên cất vào nơi không có mối, cầm bình bát và y phục trở về chỗ trú của mình. Đây là phận sự trong phòng ăn, nơi thực hành bổn phận ở trong rừng, bên ngoài tinh xá của các vị Trưởng lão, ngài Anuruddha muốn đề cập đến điều này mới nói như sau: “Vị nào…trở về sau”.

yo passatītiādi pana nesaṃ antovihāre vattanti veditabbaṃ. tattha vaccaghaṭanti ācamanakumbhiṃ. rittanti rittakaṃ. tucchanti tasseva vevacanaṃ. avisayhanti ukkhipituṃ asakkuṇeyyaṃ, atibhāriyaṃ. hatthavikārenāti hatthasaññāya. te kira pānīyaghaṭādīsu yaṃkiñci tucchakaṃ gahetvā pokkharaṇiṃ gantvā anto ca bahi ca dhovitvā udakaṃ parissāvetvā tīre ṭhapetvā aññaṃ bhikkhuṃ hatthavikārena āmantenti, odissa vā anodissa vā saddaṃ na karonti. kasmā odissa saddaṃ na karonti? taṃ bhikkhuṃ saddo bādheyyāti.

Yo passati (vị nào nhìn thấy): nên biết rằng, là phận sự bên trong tịnh xá của các Trưởng lão. Ở đó, vaccaghaṭa (chậu nước dùng cho việc rửa ráy): chậu nước dành cho việc rửa ráy. Rittaṃ là trống không. Tucchakaṃ là từ đồng nghĩa với từ rittaṃ (trống không, trống rỗng). Avisayhaṃ (làm không nổi với): (nếu) không thể nâng lên (do) sức nặng. hatthavikārena (vẫy tay gọi): ra dấu bằng tay. Kể rằng Trưởng lão đó cầm lấy bất cứ bình đựng nước nào như bình nước uống v.v, đi đến hồ nước thiên nhiên, rửa bên trong và bên ngoài rồi múc nước đổ vào bình, đặt ở trên bờ, gọi vị Tỳ khưu khác đến trợ giúp bằng cách dùng tay ra hiệu, không phát ra âm thanh cụ thể. Tại sao, không thốt ra âm thanh cụ thể? Bởi vì âm thanh sẽ làm phiền đến vị Tỳ khưu đó.

kasmā anodissa saddaṃ na karonti? anodissa sadde dinne, “ahaṃ pure, ahaṃ pure”ti dvepi nikkhameyyuṃ, tato dvīhi kattabbakamme tatiyassa kammacchedo bhaveyya. saṃyatapadasaddo pana hutvā aparassa bhikkhuno divāṭṭhānasantikaṃ gantvā tena diṭṭhabhāvaṃ ñatvā hatthasaññaṃ karoti, tāya saññāya itaro āgacchati, tato dve janā hatthena hatthaṃ saṃsibbantā dvīsu hatthesu ṭhapetvā upaṭṭhapenti. taṃ sandhāyāha — “hatthavikārena dutiyaṃ āmantetvā hatthavilaṅghakena upaṭṭhapemā”ti.

Tại sao phát ra âm thanh không cụ thể? Bởi vì, khi phát ra âm thanh không cụ thể, cả 2 vị Tỳ khưu có thể rời đi bởi hiểu rằng “tôi trước, tôi trước”, từ đó trong công việc 2 vị có thể thực hiện, vị thứ ba phải ngưng ngang công việc (mà vị ấy đang làm), vị ấy thận trọng trong lời nói đến gần chỗ nghỉ trưa  của một vị Tỳ khưu, biết rằng vị ấy đã nhìn thấy và ra hiệu, vị Tỳ khưu ngoài ra này chắc chắn sẽ đến với tín hiệu đó. Sau đó, cả hai người dùng tay nắm tay nhau đặt bình nước lên tay cả hai. Trưởng lão Anuruddha muốn đề cập đến điều đó mới nói rằng: “ngoắc tay ra dấu để gọi vị thứ 2 đến nhờ phụ giúp với hành động bằng tay”.

pañcāhikaṃ kho panāti cātuddase pannarase aṭṭhamiyanti idaṃ tāva pakatidhammassavanameva, taṃ akhaṇḍaṃ katvā pañcame pañcame divase dve therā nātivikāle nhāyitvā anuruddhattherassa vasanaṭṭhānaṃ gacchanti. tattha tayopi nisīditvā tiṇṇaṃ piṭakānaṃ aññatarasmiṃ aññamaññaṃ pañhaṃ pucchanti, aññamaññaṃ vissajjenti, tesaṃ evaṃ karontānaṃyeva aruṇaṃ uggacchati. taṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.

 Và đến ngày thứ năm (pañcāhikaṃ kho panā): vào ngày thứ 14, ngày thứ 15, ngày thứ 8 chính là ngày thính Pháp thường lệ, Ngài thực hành không đứt quãng, nhưng vào mỗi 5 ngày cả 2 vị Trưởng lão đi tắm vào lúc trời vẫn chưa quá tối. Thậm chí cả 3 vị Trưởng lão ngồi ở tại nơi đó hỏi vấn đề rồi trả lời vấn đề lẫn nhau trong bất kỳ Tạng nào trong Tam Tạng, trong khi các Trưởng lão đó thực hiện như vậy cho đến lúc bình minh. “Các Anuruddha không xao lãng, có sự tinh tấn, có tâm kiên quyết vững chắc” này đức Thế Tôn thuyết đề cập đến điều này.

ettāvatā therena bhagavatā appamādalakkhaṇaṃ pucchitena pamādaṭṭhānesuyeva appamādalakkhaṇaṃ vissajjitaṃ hoti. aññesañhi bhikkhūnaṃ bhikkhācāraṃ pavisanakālo, nikkhamanakālo, nivāsanaparivattanaṃ, cīvarapārupanaṃ, antogāme piṇḍāya caraṇaṃ dhammakathanaṃ, anumodanaṃ P.2.243, gāmato nikkhamitvā bhattakiccakaraṇaṃ, pattadhovanaṃ, pattaosāpanaṃ, pattacīvarapaṭisāmananti papañcakaraṇaṭṭhānāni etāni. tasmā thero amhākaṃ ettakaṃ ṭhānaṃ muñcitvā pamādakālo nāma natthīti dassento pamādaṭṭhānesuyeva appamādalakkhaṇaṃ vissajjesi.

Với lời chỉ chừng ấy là điều mà đức Thế Tôn hỏi đến trạng thái của sự xao lãng, đã trả lời trạng thái của sự không xao lãng trong Pháp là nơi thiết lập sự xao lãng. Phận sự thời gian đi vào để khất thực, thời gian rời khỏi, việc mặc y nội, việc mặc y vai trái, việc du hành để đi khất thực bên trong ngôi làng, việc thuyết giảng Giáo Pháp, việc nói lời tùy hỷ, việc rời khỏi ngôi làng rồi thực hành gọn gàng, việc rửa bình bát, việc bao lại bình bát, việc cất giữ bình bát, và y phục cho được trọn vẹn làm nhân đưa đến sự trễ nãi, đối với các Tỳ khưu khác. Vì thế, Trưởng lão khi trình bày rằng “được gọi là thời gian phóng dật không có nơi chúng tôi, bởi vì từ bỏ nhân thế này” mới trả lời trạng thái của sự không xao lãng này trong Pháp làm nơi thiết lập của sự không xao lãng.

  1. athassa bhagavā sādhukāraṃ datvā paṭhamajjhānaṃ pucchanto puna atthi pana votiādimāha. tattha uttari manussadhammāti manussadhammato uttari. alamariyañāṇadassanavisesoti ariyabhāvakaraṇasamattho ñāṇaviseso. kiñhi no siyā, bhanteti kasmā, bhante, nādhigato bhavissati, adhigatoyevāti. yāvadevāti yāva eva.
  2. Bấy giờ đức Thế Tôn đã ban lời khen ngợi cùng Trưởng lão đó. Khi hỏi về Sơ thiền, Ngài mới nói thêm rằng “khi các ông, ân đức cao thượng là trí và sự nhận thức… có sự tồn tại”. Ở đó, ‘vượt trội hơn Pháp của thế gian’ là Pháp siêu việt vượt trội hơn Pháp của nhân loại. Alamariyañāṇadassanaviseso là ân đức cao thượng là trí và sự nhận thức có khả năng trở thành bản thể bậc Thánh. Bởi nguyên nhân gì, không nên có (kiñhi no siyā, bhante): Tại sao? thưa Ngài, ân đức cao thượng đã chứng đắc, sẽ không chứng đắc. yāva devā chia thành yāva eva (chỉ là).
  3. evaṃ paṭhamajjhānādhigame byākate dutiyajjhānādīni pucchanto etassa pana votiādimāha. tattha samatikkamāyāti samatikkamatthāya. paṭippassaddhiyāti paṭippassaddhatthāya. sesaṃ sabbattha vuttanayeneva veditabbaṃ. pacchimapañhe pana lokuttarañāṇadassanavasena adhigataṃ nirodhasamāpattiṃ pucchanto alamariyañāṇadassanavisesoti āha. theropi pucchānurūpeneva byākāsi. tattha yasmā vedayitasukhato avedayitasukhaṃ santataraṃ paṇītataraṃ hoti, tasmā aññaṃ phāsuvihāraṃ uttaritaraṃ vā paṇītataraṃ vā na samanupassāmāti āha.

Khi việc chứng đắc Sơ thiền mà Trưởng lão đáp giải thích như vậy, đức Thế Tôn khi thuyết hỏi Nhị thiền v.v, mới đáp rằng “etassa pana vo (của Pháp làm phương tiện an trú, điều khác của các ông)” Ở đó, samatikkamāya (để vượt qua) là vì lợi ích cho sự an lạc. Từ còn lại trong tất cả các từ nên biết theo cách thức như đã nói. Còn vấn đề cuối cùng, khi thuyết hỏi sự thể nhập thiền diệt đã chứng đắc với mãnh lực trí và sự nhận thực Siêu thế, mới thuyết rằng: ân đức cao thượng là trí và sự nhận thức xứng đáng bậc Thánh. Trưởng lão giải thích rõ rằng phù hợp cùng câu hỏi. Trong câu này, Trưởng lão nói rằng: “bởi vì sự an lạc không được cảm thọ, an lạc hơn, thù thắng hơn, sự an lạc đã được cảm thọ” vì thế chúng con quán xét không thấy một lạc trú nào khác cao thượng hơn, thù thắng hơn sự lạc trú này.

  1. dhammiyā kathāyāti sāmaggirasānisaṃsappaṭisaṃyuttāya dhammiyā kathāya. sabbepi te catūsu saccesu pariniṭṭhitakiccā, tena tesaṃ paṭivedhatthāya kiñci kathetabbaṃ natthi. sāmaggirasena pana ayañca ayañca ānisaṃsoti sāmaggirasānisaṃsameva nesaṃ bhagavā kathesi. bhagavantaṃ anusaṃyāyitvāti anugantvā. te kira bhagavato pattacīvaraṃ gahetvā thokaṃ agamaṃsu, atha bhagavā vihārassa pariveṇapariyantaṃ gatakāle, “āharatha me pattacīvaraṃ, tumhe idheva tiṭṭhathā”ti pakkāmi. tato paṭinivattitvāti tato ṭhitaṭṭhānato nivattitvā. kiṃ nu kho mayaṃ āyasmatoti bhagavantaṃ nissāya pabbajjādīni adhigantvāpi attano guṇakathāya aṭṭiyamānā adhigamappicchatāya āhaṃsu.

Dhammiyā kathāya nghĩa là Chư Tỳ khưu thành tựu phận sự trong Tứ Thánh Đế với Pháp thoại gắn liền với lợi ích của ý vị hòa hợp, không có lời gì mà Ngài có thể nói vì lợi ích cho sự giác ngộ Chân Lý đó, còn đức Thế Tôn thuyết giảng lợi ích của ý vị hòa hợp cùng chư Tỳ khưu đó rằng: “Đây là lợi ích và đây là lợi ích với ý vị hòa hợp. Bhagavantaṃ anusaṃyāyitvā (sau khi tiễn đưa đức Thế Tôn): Đi theo Ngài. Kể rằng các Tỳ khưu ấy cầm lấy bình bát và y phục của đức Thế Tôn đi một đoạn, trong thời gian các Tỳ khưu ấy đưa tiễn Ngài đến đã đến cuối cùng khu vực của tinh xá, đức Thế Tôn mới nói rằng: “Lấy bình bát và y phục của Ta đến, các  hãy ở lại đây. rồi Ngài đã rời đi.tato paṭinivattitvā (sau khi trở về từ nơi đó): trở lại từ nơi đó. Kiṃ nu kho mayaṃ āyasmato (Chúng tôi không bao giờ nói với Tôn giả Anuruddha): các Tỳ khưu dựa vào đức Thế Tôn chứng đắc ân đức có sự xuất gia v.v, cũng không hoan hỷ với việc nói đến đức hạnh cao thượng của chính mình mới nói như vậy, bởi vì là người thiểu dục trong ân đức cao thượng đã chứng đắc.

imāsañca imāsañcāti paṭhamajjhānādīnaṃ lokiyalokuttarānaṃ. cetasā ceto paricca viditoti ajja me āyasmanto lokiyasamāpattiyā vītināmesuṃ, ajja lokuttarāyāti evaṃ cittena cittaṃ paricchinditvā viditaṃ. devatāpi meti, bhante anuruddha, ajja ayyo nandiyatthero, ajja ayyo kimilatthero imāya ca imāya ca samāpattiyā vītināmesīti evamārocesunti attho. pañhābhipuṭṭhenāti tampi mayā sayaṃ viditanti vā devatāhi ārocitanti vā ettakeneva mukhaṃ me sajjanti kathaṃ samuṭṭhāpetvā apuṭṭheneva me na kathitaṃ. bhagavatā pana pañhābhipuṭṭhena pañhaṃ abhipucchitena satā byākataṃ, tatra me kiṃ na rocathāti āha.

imāsañca imāsañca (cùng với an trú sự thể nhập này): Pháp Hiệp thế và Pháp Siêu thế có Sơ thiền v.v, cetasā ceto paricca vidito (nhưng với tâm của tôi, tôi biết được tâm của các Tôn giả): Trưởng lão xác định tâm với tâm biết được như vậy, ngày hôm nay Tôn giả của Tôi khiến thời gian trôi qua bởi sự thể nhập Hiệp thế, hôm nay thời gian trôi đi với sự thể nhập Hiệp thế. Devatāpi me (dầu chư Thiên đã nói…cùng tôi): Dẫu chư Thiên nói như vậy, thưa bạch Ngài Anuruddha, hôm nay Trưởng lão Nandiya làm cho thời gian trôi qua với sự thể nhập này, ngày hôm nay Trưởng lão Kimila làm cho thời gian trôi qua bằng sự thể nhập. pañhābhipuṭṭhena (đức Thế Tôn đã thuyết hỏi vấn đề): Trưởng lão nói rằng: “Tôi đã chuẩn bị sẵn sàng bởi lý do có sự ước chừng chừng ấy, câu đó Tôi biết bởi chính mình, hoặc Chư thiên nói. Đem lời vẫn chưa hỏi ra, cũng không hỏi. Còn đức Thế Tôn vấn đề được hỏi, được hỏi về vấn đề, (ngài) giải đáp giải thích rõ ràng mới thuyết rằng: “các ông vẫn không hài lòng trong lời đó chăng.”

  1. dīghoti V.2.143 “maṇi māṇivaro dīgho, atho serīsako sahā”ti (dī. ni. 3.293) evaṃ āgato aṭṭhavīsatiyā yakkhasenāpatīnaṃ abbhantaro eko devarājā. parajanoti tasseva yakkhassa nāmaṃ. yena bhagavā tenupasaṅkamīti so kira vessavaṇena pesito etaṃ ṭhānaṃ gacchanto bhagavantaṃ sayaṃ pattacīvaraṃ gahetvā giñjakāvasathato gosiṅgasālavanassa antare disvā bhagavā attanā pattacīvaraṃ gahetvā gosiṅgasālavane tiṇṇaṃ kulaputtānaṃ santikaṃ gacchati. ajja mahatī dhammadesanā bhavissati. mayāpi tassā desanāya bhāginā bhavitabbanti adissamānena kāyena satthu padānupadiko gantvā avidūre ṭhatvā dhammaṃ sutvā satthari gacchantepi na gato, — “ime therā kiṃ karissantī”ti dassanatthaṃ pana tattheva ṭhito.

Dīgho: Một vị Thiên Vương trong số 28 vị Trưởng quỷ Dạ-xoa vị được hỏi vấn đề phía trước như đã đến như vầy: “Dạ-xoa, đại Dạ-xoa, Tướng quân, đại Tướng quân như thế nào? là…Maṇi, Māṇivara, Dīgha, cùng với Serīsaka” (dī. ni. 3.293). Parajano chính là tên của Dạ-xoa. yena bhagavā tenupasaṅkami (đi đến yết kiến đức Thế Tôn tại chỗ ngụ) được biết rằng Dạ-xoa ấy được Thiên chủ Vessantara đưa đến, khi đi đến nơi, nhìn thấy đức Thế Tôn đích thân cầm y bát đi ra khỏi chỗ trú ngụ, được xây cất bằng gạch giữa khu rừng sừng bò, đã nghĩ rằng: “Đức Thế Tôn đích thân cầm y bát đi ra. đi đến trú xứ của 3 thiện nam tử, sự thuyết giảng Giáo Pháp sẽ có nhiều trong ngày hôm nay. Mặc dù tôi có thể trở thành một phần của lời thuyết giảng đó, đi theo dấu chân của bậc Đạo Sư bằng thân được hiện hữu, đứng nghe thuyết Pháp ở chỗ không xa. Khi bậc Đạo Sư đi, cũng không đi, đứng tại chỗ đó để ngắm nhìn “vị Trưởng lão đó sẽ làm gì cùng nhau.

atha te dve there anuruddhattheraṃ paliveṭhente disvā, — “ime therā bhagavantaṃ nissāya pabbajjādayo sabbaguṇe adhigantvāpi bhagavatova maccharāyanti, na sahanti, ativiya nilīyanti paṭicchādenti, na dāni tesaṃ paṭicchādetuṃ dassāmi, pathavito yāva brahmalokā etesaṃ guṇe pakāsessāmī”ti cintetvā yena bhagavā tenupasaṅkami.

Trong lúc đó nhìn thấy cả 2 vị đó lưu tâm Trưởng lão Anuruddha, nghĩ rằng: “Trưởng lão này nương tựa đức Thế Tôn, chứng đắc toàn bộ ân đức có việc xuất gia v.v, keo kiết trước mặt đức Thế Tôn không can đảm, che đậy quá nhiều, cất giấu, bây giờ Ta sẽ không để cho Ngài che giấu, Ta sẽ tuyên thuyết đức hạnh của Trưởng lão đó từ mặt đất cho đến Phạm thiên giới, mới đến gặp Thế Tôn tại nơi ở (của ngài).

lābhā vata, bhanteti ye, bhante, vajjiraṭṭhavāsino bhagavantañca ime ca tayo kulaputte passituṃ labhanti, vandituṃ labhanti, deyyadhammaṃ dātuṃ labhanti, dhammaṃ sotuṃ labhanti, tesaṃ lābhā, bhante, vajjīnanti attho. saddaṃ sutvāti P.2.245 so kira attano yakkhānubhāvena mahantaṃ saddaṃ katvā sakalaṃ vajjiraṭṭhaṃ ajjhottharanto taṃ vācaṃ nicchāresi. tena cassa tesu rukkhapabbatādīsu adhivatthā bhummā devatā saddaṃ assosuṃ. taṃ sandhāya vuttaṃ — “saddaṃ sutvā”ti. anussāvesunti mahantaṃ saddaṃ sutvā sāvesuṃ. esa nayo sabbattha. yāva brahmalokāti yāva akaniṭṭhabrahmalokā. tañcepi kulanti, “amhākaṃ kulato nikkhamitvā ime kulaputtā pabbajitā evaṃ sīlavanto guṇavanto ācārasampannā kalyāṇadhammā”ti evaṃ tañcepi kulaṃ ete tayo kulaputte pasannacittaṃ anussareyyāti evaṃ sabbattha attho daṭṭhabbo. iti bhagavā yathānusandhināva desanaṃ niṭṭhapesīti.

lābhā vata (Bạch Thế Tôn, thật lợi ích thay cho dân dân chúng Vajjī): Kính bạch đức Thế Tôn, người dân xứ Vajjī được yết kiến đức Thế Tôn và đã nhìn thấy 3 vị thiện nam tử này, đã cũng kính đảnh lễ, cúng dường vật phẩm. Bạch Ngài là lợi ích của dân chúng xứ Vajjī đó. Saddaṃ sutvā (sau khi nghe tiếng): Kể rằng Da-xoa đó phát ra âm thanh tương tự như với oai lực của Da-xoa của mình, thốt ra âm thanh bao phủ toàn bộ xứ Vajjī. Vì lý do đó, chư Thiên cư trú ở những cây cối và ngọn núi v.v, đó đã được nghe tiếng của vị Dạ-xoa đó. Ngài muốn đề cập đến điều đó nên đã nói rằng “Saddaṃ sutvā”. Anussāvesuṃ (đã tuyên thuyết): đã nghe âm thanh rồi loan báo. Trong các câu đều có phương thức như vậy. Yāva brahmalokāti (cho đến Phạm thiên giới): cho đến Phạm thiên Sắc cứu cánh. tañcepi kulaṃ (nếu gia đình đó): nên biết ý nghĩa trong các câu như vầy rằng: “Các thiện nam tử này rời khỏi dòng dõi của ta đều đã xuất gia, có giới hạnh, có đức hạnh, thành tựu với mọi phẩm hạnh, có Pháp hữu như vậy. Nếu gia đình ấy có tâm tịnh tín, có thể suy tưởng đến 3 thiện nam tử đó như thế. Đức Thế Tôn đã kết thúc bài thuyết giảng bằng sự liên kết theo cách như thế.

 Tiểu Kinh Rừng Sừng Bò Kết Thúc