Kinh số 29 – Giải Thích Đại Kinh Ví Dụ Lõi Cây
(Mahāsāropamasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Đại Kinh Ví Dụ Lõi Cây
307. evaṃ me sutanti mahāsāropamasuttaṃ. tattha acirapakkanteti saṅghaṃ bhinditvā ruhiruppādakammaṃ katvā nacirapakkante saliṅgeneva pāṭiyekke jāte.
307 Đại Kinh Ví Dụ Lõi Cây được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, ra đi không bao lâu (acirapakkanteti): khi Tỳ khưu Devadatta chia rẽ hội chúng, làm thân Phật chảy máu, đã rời đi không bao lâu, tách cả hội chúng mới vẫn chưa từ bỏ hình tướng.
idha, bhikkhave, ekacco kulaputtoti kiñcāpi asukakulaputtoti na niyāmito, devadattaṃyeva pana sandhāya idaṃ vuttanti veditabbaṃ. so hi asambhinnāya mahāsammatapaveṇiyā okkākavaṃse jātattā jātikulaputto. otiṇṇoti yassa jāti anto anupaviṭṭhā, so jātiyā otiṇṇo nāma. jarādīsupi eseva nayo. lābhasakkārādīsupi lābhoti cattāro paccayā. sakkāroti tesaṃyeva sukatabhāvo. silokoti vaṇṇabhaṇanaṃ. abhinibbattetīti uppādeti. apaññātāti dvinnaṃ janānaṃ ṭhitaṭṭhāne na paññāyanti, ghāsacchādanamattampi na labhanti. appesakkhāti appaparivārā, purato vā pacchato vā gacchantaṃ na labhanti.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có thiện nam tử (idha, bhikkhave, ekacco kulaputto): dẫu không được xác định tên của thiện nam tử đó, mặc dầu vậy lời này nên biết rằng Ngài muốn đề cập đến đến Tỳ khưu Devadatta mà thôi. Quả thật Tỳ khưu Devadatta tên của thiện nam tử theo chủng tộc bởi vì sanh trong Hoàng tộc Okkāka theo huyết thống Mahāsammata không có trộn lẫn với huyết thống của dòng dõi khác. Chìm đắm (otiṇṇo) bao gồm sự sanh khởi của người nào ở bên trong, người đó được gọi là người đã sự sanh chế ngự. Thậm chí cả trong sự già cũng có cách thức đó tương tự. Bốn món vật dụng được gọi là lợi lộc trong cụm từ lợi đắc và sự cung kính v.v. Sự cung kính bao gồm bốn món vật dụng đó được vị ấy chuẩn bị tốt. Khen ngợi: nói lời tán dương. Abhinibbatteti đồng nghĩa với uppādeti (làm cho sanh). Có ít người biết đến (apaññātā): Không xuất hiện ở nơi được biết đến ở hai phía, không có được dầu chỉ là vật thực và y phục. Có ít quyền lực (appesakkhā): là người không có đồ chúng, không có ai vây quanh cả phía trước lẫn ở phía sau.
sārena sārakaraṇīyanti rukkhasārena kattabbaṃ akkhacakkayuganaṅgalādikaṃ yaṃkiñci. sākhāpalāsaṃ aggahesi brahmacariyassāti maggaphalasārassa sāsanabrahmacariyassa cattāro paccayā sākhāpalāsaṃ nāma, taṃ aggahesi. tena ca vosānaṃ āpādīti teneva ca alamettāvatā sāro me pattoti vosānaṃ āpanno.
Công việc được vị ấy làm từ lõi cây (sārena sārakaraṇīyaṃ): Bất cứ thứ gì có trục xe, bánh xe, ách, lưỡi cày, v.v., nên được làm từ lõi cây. Nắm lấy cành lá của phạm hạnh (sākhāpalāsaṃ aggahesi brahmacariyassa) nghĩa là bốn món vật dụng được gọi là cành và lá của lời dạy Phạm hạnh có Đạo và Quả là cốt lõi, nhưng chỉ nắm lấy cành lá đó. Vị ấy chỉ dừng lại ở nhánh và lá cây (tena ca vosānaṃ āpādi): Chính vì nhân đó Tỳ khưu Devadatta ấy mới ngưng lại với sự hiểu biết rằng: đủ rồi ta đã đạt được lõi cây.
310. ñāṇadassanaṃ ārādhetīti devadatto pañcābhiñño, dibbacakkhu ca pañcannaṃ abhiññānaṃ matthake ṭhitaṃ, taṃ imasmiṃ sutte “ñāṇadassanan”ti vuttaṃ. ajānaṃ apassaṃ viharantīti kiñci sukhumaṃ rūpaṃ ajānantā antamaso paṃsupisācakampi apassantā viharanti.
310 Vị ấy thành tựu trí tuệ và sự nhận thức (ñāṇadassanaṃ ārādheti): nghĩa là Tỳ khưu Devadatta thành tựu năm loại thắng trí, thiên nhãn đứng cuối cùng trong năm loại thắng trí, thiên nhãn đó Ngài nói rằng “trí tuệ và sự nhận thức” trong bài Kinh này. Trong khi không biết, trong khi không thấy (ajānaṃ apassaṃ viharanti): các Tỳ khưu không biết sắc vi tế nào, thậm chị không nhìn thấy được loài quỷ đói ở đống rác.
311. asamayavimokkhaṃ ārādhetīti, “katamo asamayavimokkho? cattāro ca ariyamaggā cattāri ca sāmaññaphalāni, nibbānañca, ayaṃ asamayavimokkho”ti (paṭi. ma. 1.213) evaṃ vutte navalokuttaradhamme ārādheti sampādeti paṭilabhati. lokiyasamāpattiyo hi appitappitakkhaṇeyeva paccanīkadhammehi vimuccanti, tasmā, “katamo samayavimokkho? cattāri ca jhānāni catasso ca arūpāvacarasamāpattiyo, ayaṃ samayavimokkho”ti evaṃ samayavimokkhoti vuttā. lokuttaradhammā pana kālena kālaṃ vimuccanti, sakiṃ vimuttāni hi maggaphalāni vimuttāneva honti. nibbānaṃ sabbakilesehi accantaṃ vimuttamevāti ime nava dhammā asamayavimokkhoti vuttā.
311 Vị ấy thành tựu giải thoát vô thời hạn (asamayavimokkhaṃ ārādheti): Thiện nam tử hoan hỷ đạt đến sự tròn đủ 9 Pháp Siêu thế mà Ngài đã nói như vầy “Giải thoát vô thời hạn như thế nào là 4 Thánh Đạo, bốn Quả vị của Sa-môn, và Niết Bàn này được gọi là giải thoát vô thời hạn” (paṭi. ma. 1.213). Thât vậy sự chứng thiền Hiệp thế được thoát khỏi các pháp đối nghịch ở chính sát-na đạt đến an tịnh. Vi thế, “sự chứng thiền Hiệp thế đó Ngài đã nói rằng là sự giải thoát có thời hạn như vầy “sự giải thoát có thời hạn như thế nào? Bốn sự chứng đạt thiền Sắc giới và bốn sự chứng đạt vô sắc; đây là giải thoát có thời hạn.” Còn Pháp Siêu thế vượt khỏi mọi thời, bởi vì tâm Đạo và tâm Quả được thoát khỏi một lần, cũng trở nên thoát khỏi luôn, Niết bàn cũng đã giải thoát tất cả ô nhiễm hoàn toàn tuyệt đối, vì thế chính Pháp này Ngài đã nói rằng “ giải thoát vô thời hạn”.
akuppā cetovimuttīti arahattaphalavimutti. ayamattho etassāti etadatthaṃ, arahattaphalatthamidaṃ brahmacariyaṃ. ayaṃ etassa atthoti vuttaṃ hoti. etaṃ sāranti etaṃ arahattaphalaṃ brahmacariyassa sāraṃ. etaṃ pariyosānanti etaṃ arahattaphalaṃ brahmacariyassa pariyosānaṃ, esā koṭi, na ito paraṃ pattabbaṃ atthīti yathānusandhināva desanaṃ niṭṭhapesīti.
Sự giải thoát của tâm không lay động (akuppā cetovimutti): sự giải thoát tương ưng với với A-ra-hán Quả. Lợi ích này của sự giải thoát đó tồn tại, vì thế Phạm hạnh đó được gọi là có sự giải thoát của tâm là lợi ích. Ngài giải thích rằng đây là lợi ích của Phạm hạnh đó. Là cốt lõi (etaṃ sāraṃ): A-ra-hán Đạo và A-ra-hán Quả này là cốt lõi của Phạm hạnh. La mục tiêu cuối cùng (etaṃ pariyosānaṃ): A-ra-hán Quả là lợi ích cuối cùng của Phạm hạnh, A-ra-hán quả là tận cùng, không còn Quả vị nào cần để chứng đắc cao hơn nữa, vì vậy Ngài đã kết thúc sự thuyết giảng bằng sự liên kết này.
Giải Thích Đại Kinh Ví Dụ Lõi Cây