Kinh số 28 – Giải Thích Đại Kinh Ví Dụ Dấu Chân Voi

(Mahāhatthipadopasuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Đại Kinh Ví Dụ Dấu Chân Voi

♦ 300. evaṃ me sutanti mahāhatthipadopamasuttaṃ. tattha jaṅgalānanti pathavītalacārīnaṃ. pāṇānanti sapādakapāṇānaṃ. padajātānīti padāni. samodhānaṃ gacchantīti odhānaṃ pakkhepaṃ gacchanti. aggamakkhāyatīti seṭṭhaṃ akkhāyati. yadidaṃ mahantattenāti mahantabhāvena aggaṃ akkhāyati, na guṇavasenāti attho. ye keci kusalā dhammāti ye keci lokiyā vā lokuttarā vā kusalā dhammā. saṅgahaṃ gacchantīti ettha catubbidho saṅgaho — sajātisaṅgaho, sañjātisaṅgaho, kiriyasaṅgaho, gaṇanasaṅgahoti. tattha “sabbe khattiyā āgacchantu sabbe brāhmaṇā”ti evaṃ samānajātivasena saṅgaho sajātisaṅgaho nāma. “sabbe kosalakā sabbe māgadhakā”ti evaṃ sañjātidesavasena saṅgaho sañjātisaṅgaho nāma. “sabbe rathikā sabbe dhanuggahā”ti evaṃ kiriyavasena saṅgaho kiriyasaṅgaho nāma. “cakkhāyatanaṃ katamakkhandhagaṇanaṃ gacchatīti? cakkhāyatanaṃ rūpakkhandhagaṇanaṃ gacchati. hañci cakkhāyatanaṃ rūpakkhandhagaṇanaṃ gacchati, tena vata re vattabbe cakkhāyatanaṃ rūpakkhandhena saṅgahitan”ti (kathā. 471), ayaṃ gaṇanasaṅgaho nāma. imasmimpi ṭhāne ayameva adhippeto.

  1. Đại Kinh Ví Dụ Dấu Chân Voi được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, người đi bộ trên mặt đất (jaṅgalānaṃ): người đi bộ trên mặt đất. Chúng sanh (pāṇānaṃ) chúng sanh có chân và chúng sanh không có chân. Dấu chân (padajātāni): tất cả dấu chân. Thâu nhiếp lại (samodhānaṃ gacchanti): gom chung lại đặt xuống. Được xem là lớn nhất (aggamakkhāyati): người nói là tối thượng. Bởi vì dấu chân voi là dấu chân to lớn (yadidaṃ mahantattena): ngài nói là xuất sắc bởi dâu chân to lớn, nghĩa là không phải to lớn nhờ đức hạnh. Chư Pháp thiện nào (ye keci kusalā dhammā): Bất cứ các Pháp thiện nào dù là Hiệp thế hay Siêu thế. Nhiếp thâu trong cụm từ saṅgahaṃ gacchanti này có 4 loại là sajātisaṅgaho, sañjātisaṅgaho, kiriyasaṅgaho, gaṇanasaṅgaho. Trong bốn sự nhiếp thâu đó việc thâu nhiếp theo vơi sanh chủng (jāti) của chính mình như vầy: “xin các Sát-đế-lị hãy đến, xin các Bà-la-môn hãy đến.” đây gọi là sajātisaṅgaho. Việc nhiếp thâu theo cùng một nơi xuất xứ: “tất cả dân chúng Kosala, tất cả dân chúng māgadha” gọi là sañjātisaṅgaho. Việc nhiếp thâu bởi các hành động: “tất cả lực xe, tất cả lực nắm lấy cung” đây gọi là kiriyasaṅgaho. Việc nhiếp thâu như vầy “nhãn xứ nhiếp uẩn nào? nhãn xứ nhiếp trong sắc uẩn, nhãn xứ đến việc nhiếp thâu lại trong uẩn nào? khi bị nói đến với câu đó nhãn xứ ngài cũng nhiếp vào sắc uẩn gọi là gaṇanasaṅgaho. Trong trường hợp này ngài có ý muốn nói riêng gaṇanasaṅgaho.

nanu ca “catunnaṃ ariyasaccānaṃ kati kusalā kati akusalā kati abyākatāti pañhassa vissajjane samudayasaccaṃ akusalaṃ, maggasaccaṃ kusalaṃ, nirodhasaccaṃ abyākataṃ, dukkhasaccaṃ siyā kusalaṃ, siyā akusalaṃ, siyā abyākatan”ti (vibha. 216-217) āgatattā catubhūmakampi kusalaṃ diyaḍḍhameva saccaṃ bhajati. atha kasmā mahāthero catūsu ariyasaccesu gaṇanaṃ gacchatīti āhāti? saccānaṃ antogadhattā. yathā hi “sādhikamidaṃ, bhikkhave, diyaḍḍhasikkhāpadasataṃ anvaddhamāsaṃ uddesaṃ āgacchati, yattha attakāmā kulaputtā sikkhanti. tisso imā, bhikkhave, sikkhā adhisīlasikkhā adhicittasikkhā adhipaññāsikkhā”ti (a. ni. 3.88) ettha sādhikamidaṃ diyaḍḍhasikkhāpadasataṃ ekā adhisīlasikkhāva hoti, taṃ sikkhantopi tisso sikkhā sikkhatīti dassito, sikkhānaṃ antogadhattā. yathā ca ekassa hatthipadassa catūsu koṭṭhāsesu ekasmiṃ koṭṭhāse otiṇṇānipi dvīsu tīsu catūsu koṭṭhāsesu otiṇṇānipi siṅgālasasamigādīnaṃ pādāni hatthipade samodhānaṃ gatāneva honti. hatthipadato amuccitvā tasseva antogadhattā. evameva ekasmimpi dvīsupi tīsupi catūsupi saccesu gaṇanaṃ gatā dhammā catūsu saccesu gaṇanaṃ gatāva honti; saccānaṃ antogadhattāti diyaḍḍhasaccagaṇanaṃ gatepi kusaladhamme “sabbe te catūsu ariyasaccesu saṅgahaṃ gacchantī”ti āha. “dukkhe ariyasacce”tiādīsu uddesapadesu ceva jātipi dukkhātiādīsu niddesapadesu ca yaṃ vattabbaṃ, taṃ visuddhimagge vuttameva. kevalaṃ panettha desanānukkamova veditabbo.

Hỏi rằng trong việc giải quyết vấn đề này “trong Tứ Thánh Đế thế nào là thiện, thế nào là bất thiện, thế nào là vô ký, Trưởng lão phân tích tâm thiện dẫu vận hành trong bốn Bhūmi trong Pāḷī như sau Tập Đế là bất thiện, Đạo Đế là thiện, Diệt Đế là vô ký; Khổ Đế đôi khi là thiện, đôi khi là bát thiện và đôi khi là vô ký không phải sao?” (vibha. 216-217). Như thế vì sao trưởng lão lại nói rằng các Pháp thiện này được nhiếp hợp trong Tứ Thánh Đế. Bởi vì thiện Pháp đó nhiếp thâu trong các Thánh Đế. Thật vậy, “ 150 điều học quan trọng là một loại tăng thượng giới học, vị Tỳ khưu học tập tăng thượng giới học đó đức Thế Tôn thuyết là người học tập 3 điều học như trong Pāḷī: “Này chư Tỳ khưu 150 học giới quan trọng được tụng đọc mỗi nửa tháng nơi các thiện nam tử, người mong ước lợi ích học tập với nhau. Này chư Tỳ khưu 3 học giới này là tăng thượng giới học, tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học và tăng thượng tuệ học do nhờ 150 điều học nhiếp họp lại trong các điều học giới. giống như dấu chân của muôn loài như chó nhà, chó rừng, thỏ và hươu nai v.v, được gom lại trong một phần, hay gom lại trong 2-3-4 phần đặt vào bốn phần của dấu chân một thớt tượng được gom lại trong các dấu chân voi, không nằm ngoài dấu chân voi do gom lại đặt  hoàn toàn vào trong dấu chân voi đó như thế nào; các Pháp tính vào trong một Đế (sự thật), hay hai, hay ba, hay bốn cũng như thế ấy tương tự được tính gộp lại trong cả bốn Đế, do tất các Pháp nhiếp thâu trong các Đế, vì thế ngài mới nói đến thiện Pháp được được thâu nhiếp trong một nữa Đế, tất cả Pháp đó được nhiếp họp trong Tứ Thánh Đế. Lời cần nói trong câu tóm lược là “trong Khổ Thánh Đế” v.v, và trong câu tóm lược “sanh là khổ” v.v, toàn bộ đã được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo. Nhưng trong trường hợp này nên biết riêng biệt theo tuần tự sự thuyết giảng duy nhất.

  1. yathā hi cheko vilīvakāro sujātaṃ veḷuṃ labhitvā catudhā chetvā tato tayo koṭṭhāse ṭhapetvā ekaṃ gaṇhitvā pañcadhā bhindeyya, tatopi cattāro ṭhapetvā ekaṃ gaṇhitvā phālento pañca pesiyo kareyya, tato catasso ṭhapetvā ekaṃ gaṇhitvā kucchibhāgaṃ piṭṭhibhāganti dvidhā phāletvā piṭṭhibhāgaṃ ṭhapetvā kucchibhāgaṃ ādāya tato samuggabījanitālavaṇṭādinānappakāraṃ veḷuvikatiṃ kareyya, so piṭṭhibhāgañca itarā ca catasso pesiyo itare ca cattāro koṭṭhāse itare ca tayo koṭṭhāse kammāya na upanessatīti na vattabbo. ekappahārena pana upanetuṃ na sakkā, anupubbena upanessati. evameva ayaṃ mahātheropi vilīvakāro sujātaṃ veḷuṃ labhitvā cattāro koṭṭhāse viya, imaṃ mahantaṃ suttantaṃ ārabhitvā catuariyasaccavasena mātikaṃ ṭhapesi. vilīvakārassa tayo koṭṭhāse ṭhapetvā ekaṃ gahetvā tassa pañcadhā karaṇaṃ viya therassa tīṇi ariyasaccāni ṭhapetvā ekaṃ dukkhasaccaṃ gahetvā bhājentassa khandhavasena pañcadhā karaṇaṃ. tato yathā so vilīvakāro cattāro koṭṭhāse P.2.220 ṭhapetvā ekaṃ bhāgaṃ gahetvā pañcadhā phālesi, evaṃ thero cattāro arūpakkhandhe ṭhapetvā rūpakkhandhaṃ vibhajanto cattāri ca mahābhūtāni catunnañca mahābhūtānaṃ upādāya rūpanti pañcadhā akāsi. tato yathā so vilīvakāro catasso pesiyo ṭhapetvā ekaṃ gahetvā kucchibhāgaṃ piṭṭhibhāganti dvidhā phālesi, evaṃ thero upādāya rūpañca tisso ca dhātuyo ṭhapetvā ekaṃ pathavīdhātuṃ vibhajanto ajjhattikabāhiravasena dvidhā dassesi. yathā so vilīvakāro piṭṭhibhāgaṃ ṭhapetvā kucchibhāgaṃ ādāya nānappakāraṃ vilīvavikatiṃ akāsi, evaṃ thero bāhiraṃ pathavīdhātuṃ ṭhapetvā ajjhattikaṃ pathavīdhātuṃ vīsatiyā ākārehi vibhajitvā dassetuṃ katamā cāvuso, ajjhattikā pathavīdhātūtiādimāha.
  2. Tương tự người thợ đan lát thiện xảo nhận được một cây tre tốt, chặt làm 4 đoạn dài, từ 4 đoạn dài chừa 3 đoạn dài, chỉ cầm 1 đoạn dài rồi chặt thành 5 đoạn ngắn; từ 5 đoạn ngắn chừa lại 4 đoạn ngắn, chỉ lấy 1 đoạn ngắn; từ 1 đoạn ngắn rồi chẻ thành 5 phần, từ 5 phần chừa lại 4 phần chỉ lấy 1 phần; từ 1 phần gọt thành 2 phần là phần lưng và phần bụng, sau đó bỏ phần lưng chỉ lấy phần bụng. Từ đó làm được nhiều loại vật dụng từ tre như cái hộp (trang sức) , cái quạt tre và quạt cây thốt nốt v.v, người thợ đan lát không bị người khác nói rằng không sử dụng các phần lưng thêm 4 khúc thêm 4 phần và thêm 3 phần nhưng vị ấy không sử dụng làm việc trong cùng một lúc được nhưng sẽ sử dụng theo thứ tự như thế nào; thì Đại Trưởng lão cũng tương tự như thế đó, bắt đầu từ bài kinh lớn này, đặt Mẫu Đề theo Tứ Thánh Đế giống như người thợ đan lát được cây tre tốt chia thành bốn phần. Trưởng lão đã loại bỏ ba Thánh Đế, chỉ lấy mỗi Khổ Đế để phân tích, làm thành 5 Uẩn giống như người thợ đang lát bỏ 3 đoạn dài chỉ lấy một đoạn dài (tử bốn đoạn dài), rồi từ một phần chặt thành 5 đoạn ngắn. Từ đó Trưởng lão loại trừ 4 Uẩn Vô Sắc rồi phân tích Sắc Uẩn và 4 Sắc Đại Hiển thành 5 phần là 4 Sắc Đại Hiển và Sắc Y Đại Sinh, tương tự như thợ đan lát loại bỏ 4 phần chỉ lấy một phần rồi chẻ thành 5 lát. Từ đó khi Trưởng lão loại bỏ Sắc Y Đại Sinh và 3 Giới rồi chỉ phân tích một Địa Giới trình bày thành 2 phần Nội Xứ và Ngoại Xứ, tương tự như thơ đan lát bỏ 4 phần chỉ lấy một phần rồi chẻ làm 2 phần là phần bụng và phần lưng. Khi loại bỏ Địa Giới bên ngoài chỉ phân tích Địa Giới bên trong theo 20 biểu hiện, Trưởng lão đã nói như sau “katamā cāvuso, ajjhattikā pathavīdhātu (này hiền giả địa giới bên trong như thế nào?)” cũng tương tự như thợ đan lát loại bỏ phần lưng cầm lấy phần bụng rồi làm thành những vật dụng đan lát khác nhau.

yathā V.2.120 pana vilīvakāro piṭṭhibhāgañca itarā ca cattasso pesiyo itare ca cattāro koṭṭhāse itare ca tayo koṭṭhāse anupubbena M.2.124 kammāya upanessati, na hi sakkā ekappahārena upanetuṃ, evaṃ theropi bāhirañca pathavīdhātuṃ itarā ca tisso dhātuyo upādārūpañca itare ca cattāro arūpino khandhe itarāni ca tīṇi ariyasaccāni anupubbena vibhajitvā dassessati, na hi sakkā ekappahārena dassetuṃ. apica rājaputtūpamāyapi ayaṃ kamo vibhāvetabbo —

Hơn nữa, giống như người thợ đan lát sử dụng phần sau nữa 4 phần và thêm 3 phần theo thứ tự, nhưng không thể sử dụng chúng cùng một lúc được như thế nào, ngay cả Trưởng lão cũng như thế đó, phân tích Địa Giới bên ngoài và thêm bốn giới, Sắc Y Đại Sinh, 4 Vô Sắc Uẩn, 3 Thánh Đế rồi thuyết giảng theo tuần tự, nhưng không thể nào trình bày cùng một lúc được. Lại nữa, nên giảng giải theo tuần, bằng ví dụ sau với vị Hoàng Tử để cho (vấn đề) được sáng tỏ như sau:

eko kira mahārājā, tassa parosahassaṃ puttā. so tesaṃ piḷandhanaparikkhāraṃ catūsu peḷāsu ṭhapetvā jeṭṭhaputtassa appesi — “idaṃ te, tāta, bhātikānaṃ piḷandhanabhaṇḍaṃ tathārūpe chaṇe sampatte piḷandhanaṃ no dehīti yācantānaṃ dadeyyāsī”ti. so “sādhu devā”ti sāragabbhe paṭisāmesi, tathārūpe chaṇadivase rājaputtā rañño santikaṃ gantvā “piḷandhanaṃ no, tāta, detha, nakkhattaṃ kīḷissāmā”ti āhaṃsu. tātā, jeṭṭhabhātikassa vo hatthe mayā piḷandhanaṃ ṭhapitaṃ, taṃ āharāpetvā piḷandhathāti. te sādhūti paṭissuṇitvā tassa santikaṃ gantvā, “tumhākaṃ kira no hatthe piḷandhanabhaṇḍaṃ, taṃ dethā”ti āhaṃsu. so evaṃ karissāmīti gabbhaṃ vivaritvā, catasso peḷāyo nīharitvā tisso ṭhapetvā ekaṃ vivaritvā, tato pañca samugge nīharitvā cattāro ṭhapetvā ekaṃ vivaritvā, tato pañcasu karaṇḍesu P.2.221 nīharitesu cattāro ṭhapetvā ekaṃ vivaritvā pidhānaṃ passe ṭhapetvā tato hatthūpagapādūpagādīni nānappakārāni piḷandhanāni nīharitvā adāsi. so kiñcāpi itarehi catūhi karaṇḍehi itarehi catūhi samuggehi itarāhi tīhi peḷāhi na tāva bhājetvā deti, anupubbena pana dassati, na hi sakkā ekappahārena dātuṃ.

Kể rằng có một Đại Vương, vị ấy có hơn 1,000 vị Hoàng Tử. Ngài cất giữ đồ trang sức của các Hoàng Tử ấy đặt vào trong 4 cái rương lớn, giao cho Đại Hoàng Tử Jeṭṭha với lời dặn dò rằng – “Này con các đồ trang sức là của các Hoàng đệ của con, khi nào có Đại hội con hãy cho những đồ trang sức này, do vậy khi các Hoàng đệ xin (con) mới từ từ ban phát.” Đại Hoàng Tử Jeṭṭha nhận lời răng ‘Thưa vâng Phụ Vương, rồi cất giữ chúng trong ngân khố.” Trong ngày Đại hội ấy các vị Hoàng Tử cùng nhau đến yết kiến Phụ Vương, rồi tâu rằng: “Thưa Phụ Vương, xin Phụ Vương hãy cho chúng con một số đồ trang sức để chúng con đi chơi lễ.” Đức Vua nói: “này các con, ta đã trao những đồ trang sức đến tay Đại Hoàng huynh của các con, các con sẽ lấy đồ trang sức đó và tô điểm cho mình. Những vị Hoàng Tử đó đã vâng lời. Sau đó, họ đến gặp Đại Hoàng huynh của mình và hỏi về những món đồ trang sức từ Hoàng huynh mình. Hoàng Tử Jeṭṭha bước vào ngân khố để mang 4 chiếc rương lớn ra, loại ra 3 chiếc rương chỉ mở một cái rương; lấy 5 cái rương nhỏ ra khỏi từ chiếc rương lớn đó, loại ra lại 4 chiếc rương nhỏ (không mở), chỉ mở một cái rương nhỏ; khi đem ra 5 cái tráp ra từ cái rương nhỏ, loại ra 4 tráp chỉ mở một tráp, đặt một bên, từ đó mới mang các loại đồ trang sức tay, đồ trang sức chân trao tặng, Hoàng tử Jeṭṭha anh không cho chia cho 4 tráp, 4 rương nhỏ và 4 rương lớn trước, mặc dầu vậy (vị ấy) vẫn trao tặng (đồ trang sức) theo thứ tự, vì thế mới không thể trao một lần duy nhất được.

tattha mahārājā viya bhagavā daṭṭhabbo. vuttampi cetaṃ — “rājāhamasmi selāti bhagavā, dhammarājā anuttaro”ti (su. ni. 559). jeṭṭhaputto viya sāriputtatthero, vuttampi cetaṃ — “yaṃ kho taṃ, bhikkhave, sammā vadamāno vadeyya, ‘bhagavato putto oraso mukhato jāto dhammajo dhammanimmito dhammadāyādo, no āmisadāyādo’ti sāriputtameva taṃ sammā vadamāno vadeyya, bhagavato putto … pe … no āmisadāyādo”ti (ma. ni. 3.97). parosahassarājaputtā viya bhikkhusaṅgho daṭṭhabbo. vuttampi cetaṃ —

Trong ví dụ minh họa nên hiểu đức Thế giống như Đức Vua. Điều này như ngài đã nói – “Đức Thế Tôn là bậc Pháp Vương cao thượng thuyết rằng này Bà-la-môn Sela ta cũng là Vua.” (su. ni. 559). Nên thấy rằng Trưởng lão Sārīputta giống như Hoàng tử Jeṭṭha, điều này như đã nói – “Này chư Tỳ khưu, hạng người nếu được gọi một cách chân chánh, nên gọi vị Tỳ khưu đó là Sārīputta rằng con trai, Hoàng tử sanh ra từ miệng, được tạo ra từ giáo pháp, là người thừa tự Pháp, không phải là kẻ thừa tự tài vật của đức Thế Tôn, con người khi gọi một cách chân chánh rằng con trai …nt… không phải là kẻ thừa tự tài vật của đức Thế Tôn.” (ma. ni. 3.97). Nên thấy rằng Chúng Tăng giống như các Hoàng đệ nhiều hơn 1,000 vị. Điều này như đã nói –

“parosahassaṃ bhikkhūnaṃ, sugataṃ payirupāsati.

desentaṃ virajaṃ dhammaṃ, nibbānaṃ akutobhayan”ti. (saṃ. ni. 1.216).

Tỳ khưu hơn 1,000 vị đi đến yết kiến đấng Thiện Thệ trong khi Ngài đang thuyết giảng Giáo Pháp thoát khỏi phiền não, Niết Bàn, nơi không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu.

rañño tesaṃ puttānaṃ piḷandhanaṃ catūsu peḷāsu pakkhipitvā jeṭṭhaputtassa hatthe ṭhapitakālo viya bhagavato dhammasenāpatissa hatthe catusaccappakāsanāya ṭhapitakālo, tenevāha — “sāriputto, bhikkhave, pahoti cattāri ariyasaccāni vitthārena ācikkhituṃ desetuṃ paññāpetuṃ paṭṭhapetuṃ vivarituṃ vibhajituṃ uttānīkātun”ti (ma. ni. 3.371). tathārūpe khaṇe tesaṃ rājaputtānaṃ taṃ rājānaṃ upasaṅkamitvā piḷandhanaṃ yācanakālo viya bhikkhusaṅghassa vassūpanāyikasamaye āgantvā dhammadesanāya yācitakālo. upakaṭṭhāya kira vassūpanāyikāya idaṃ suttaṃ desitaṃ.

Thời gian đức Thế Tôn tuyên thuyết Tứ Thánh Đế đã đặt trong tay của vị Tướng Quân Chánh Pháp tương tự như thời gian Đức Vua cất giữ những đồ trang sức của những vị Hoàng tử đó đặt trong bốn cái rương lớn, rồi trao chúng cho Hoàng tử Seṭṭha. Vì thế đức Thế Tôn mới thuyết rằng: “Này chư Tỳ khưu, Sārīputta có thể thuyết minh, hiển thị, truyền đạt, phân tích, làm cho minh bạch Tứ Thánh Đế một cách chi tiết.” (ma. ni. 3.371). Thời gian Chúng Tăng trong lúc an cư mùa mưa rồi thỉnh cầu thuyết giảng Giáo Pháp giống như thời gian các Hoàng tử đi đến gặp Đức Vua hỏi về những đồ trang sức trong ngày Đại hội đó, kể rằng trong ngày lễ an cư mùa mưa đức Thế Tôn sẽ thuyết giảng bài Kinh này.

rañño, “tātā, jeṭṭhabhātikassa vo hatthe mayā piḷandhanaṃ ṭhapitaṃ taṃ āharāpetvā piḷandhathā”ti vuttakālo viya sambuddhenāpi, “sevetha, bhikkhave, sāriputtamoggallāne, bhajatha, bhikkhave, sāriputtamoggallāne. paṇḍitā bhikkhū anuggāhakā sabrahmacārīnan”ti evaṃ dhammasenāpatino santike bhikkhūnaṃ pesitakālo.

Thời gian bậc Chánh Đẳng Chánh Giác gửi chư Tỳ khưu đến trú xứ của vị Tướng Quân Chánh Pháp với kim ngôn như vầy: “Này chư Tỳ khưu, các con hãy thọ nhận, hãy đến gặp Sāriputta và Moggallāna. Này chư Tỳ khưu Sāriputta và Moggallāna là bậc trí giả, trợ giúp bạn đồng phạm hạnh. Giống như thời gian đức Vua nói rằng: “Này các con, trẫm đã trao những món trang sức đến tay Hoàng tử Jeṭṭha các con rồi hãy mang đến để trang sức.”

rājaputtehi rañño kathaṃ sutvā jeṭṭhabhātikassa santikaṃ gantvā piḷandhanaṃ yācitakālo viya bhikkhūhi satthukathaṃ sutvā dhammasenāpatiṃ upasaṅkamma dhammadesanaṃ āyācitakālo. jeṭṭhabhātikassa gabbhaṃ vivaritvā catasso peḷāyo nīharitvā ṭhapanaṃ viya dhammasenāpatissa imaṃ suttantaṃ ārabhitvā catunnaṃ ariyasaccānaṃ vasena mātikāya ṭhapanaṃ. tisso peḷāyo ṭhapetvā ekaṃ vivaritvā tato pañcasamugganīharaṇaṃ viya tīṇi ariyasaccāni ṭhapetvā dukkhaṃ ariyasaccaṃ vibhajantassa pañcakkhandhadassanaṃ. cattāro samugge ṭhapetvā ekaṃ vivaritvā tato pañcakaraṇḍanīharaṇaṃ viya cattāro arūpakkhandhe ṭhapetvā ekaṃ rūpakkhandhaṃ vibhajantassa catumahābhūtaupādārūpavasena pañcakoṭṭhāsadassanaṃ.

Thời gian chư Tỳ khưu lắng nghe kim ngôn của bậc Đạo Sư rồi đi đến tìm vị Tướng Quân Chánh Pháp thỉnh mời thuyết Pháp giống như thời gian các Hoàng Tử nghe kim ngôn của đức Vua rồi đi đến thư phòng của Hoàng Tử Jeṭṭha, rồi xin những vật trang sức. Thời gian vị Tướng Quân Chánh Pháp bắt đầu bài Kinh này rồi đặt các Mẫu Đề bằng Tứ Thánh Đế giống như thời gian Hoàng tử Jeṭṭha mở cửa phòng rồi mang 4 cái rương lớn đặt ở đó. Việc loại trừ 3 Thánh Đế chỉ phân tích Khổ Đế, chỉ ra Ngũ Uẩn, tương tự như việc loại ra 3 cái rương lớn chỉ mở một cái rương lớn để lấy những chiếc rương nhỏ (trong cái rương lớn); chỉ ra việc phân tích chỉ Sắc Uẩn hiển thị được 5 phần với 4 Sắc Đại Hiển và Sắc Y Đại Sinh giống như loại ra 4 cái rương nhỏ chỉ mở một cái rương nhỏ rồi đem ra 5 cái tráp từ cái rương nhỏ;

  1. cattāro karaṇḍe ṭhapetvā ekaṃ vivaritvā pidhānaṃ passe ṭhapetvā hatthūpagapādūpagādipiḷandhanadānaṃ viya tīṇi mahābhūtāni upādārūpañca ṭhapetvā ekaṃ pathavīdhātuṃ vibhajantassa bāhiraṃ tāva pidhānaṃ viya ṭhapetvā ajjhattikāya M.2.126 pathavīdhātuyā nānāsabhāvato vīsatiyā ākārehi dassanatthaṃ “katamā cāvuso ajjhattikā pathavīdhātū”tiādivacanaṃ.
  2. Việc mà Trưởng lão loại bỏ 3 Sắc Đại Hiển và Sắc Y Đại Sinh chỉ phân tích duy nhất một Địa Giới rồi loại ra Địa Giới bên ngoại giống như đóng lại, để trình bày Địa Giới bên trong có 20 biểu hiện theo cách thực tính khác mới nói lời như sau: “Và này hiền giả, thế nào là nội Địa Giới?

tassa pana rājaputtassa tehi catūhi karaṇḍehi catūhi samuggehi tīhi ca peḷāhi pacchā anupubbena nīharitvā piḷandhanadānaṃ viya therassāpi itaresañca tiṇṇaṃ mahābhūtānaṃ upādārūpānañca catunnaṃ arūpakkhandhānañca tiṇṇaṃ ariyasaccānañca pacchā anupubbena bhājetvā dassanaṃ veditabbaṃ. yaṃ panetaṃ “katamā cāvuso, ajjhattikā pathavīdhātū”tiādi vuttaṃ. tattha ajjhattaṃ paccattanti ubhayampetaṃ niyakādhivacanameva. kakkhaḷanti thaddhaṃ. kharigatanti pharusaṃ. upādinnanti na kammasamuṭṭhānameva, avisesena pana sarīraṭṭhakassetaṃ gahaṇaṃ. sarīraṭṭhakañhi upādinnaṃ vā hotu, anupādinnaṃ vā, ādinnagahitaparāmaṭṭhavasena sabbaṃ upādinnameva nāma. seyyathidaṃ — kesā lomā … pe … udariyaṃ karīsanti idaṃ dhātukammaṭṭhānikassa kulaputtassa ajjhattikapathavīdhātuvasena tāva kammaṭṭhānaṃ vibhattaṃ. ettha pana manasikāraṃ ārabhitvā vipassanaṃ vaḍḍhetvā arahattaṃ gahetukāmena yaṃ kātabbaṃ, taṃ sabbaṃ visuddhimagge vitthāritameva.

Tương tự loại bỏ 4 cái tráp rồi chỉ lấy một cái tráp, loại bỏ cái rương đã đóng đặt một bên rồi phân phát những đồ trang sức tay và đồ trang sức chân v.v, nên biết rằng dẫu Trưởng lão phân tích 3 Sắc Đại Hiển, Sắc Y Đại Sinh, 4 Vô Sắc Uẩn, 3 Thánh Đế rồi trình bày theo tuần tự ở đằng sau giống như Hoàng tử đem đến 4 cái tráp, 4 cái rương nhỏ, và 3 cái rương lớn đó rồi phân phát các đồ trang sức theo tuần tự thứ lớp sau. Cũng lời nào đó Ngài đã nói rằng “Và này hiền giả, thế nào là nội Địa Giới?” v.v, cần phải lý giải lời đó cả 2 câu rằng “cái gì thuộc nội thân, thuộc tự thân” v.v, là tên gọi Pháp tự nhiên tồn tại bên trong tự ngã. Cứng (kakkhaḷaṃ): cứng dai. Thô thiển (kharigataṃ): thô nhám. Sắc thủ (upādinnaṃ): không chỉ có nghiệp làm sở sanh, nhưng cũng không có gì lạ ‘chấp thủ upādinnaṃ’ này là tên gọi của sắc được thiết lập trong thân. Thật vậy, Sắc được thiết lập trong thân dẫu là Sắc Thủ hoặc là Sắc Phi Thủ cũng đều được gọi là Sắc Thủ bằng sự chấp chặt mơn trớn được như – tóc, long…nt…vật thực mới, vật thực cũ. Lời này  Ngài xác định phân tích bằng Địa Giới ở bên trong đối với thiện nam tử  đang thực hành Giới Nghiệp Xứ (dhātukammaṭṭhāna), nhưng trong trường hợp này lời mà người muốn bắt đầu tác ý đúng đắn để tu tập Minh Sát nắm lấy quả vị A-ra-hán cần phải thực hành toàn bộ đã được giải thích chi tiết trong Thanh Tịnh Đạo.

matthaluṅgaṃ pana na idha pāḷiāruḷhaṃ. tampi āharitvā, visuddhimagge vuttanayeneva vaṇṇasaṇṭhānādivasena vavatthapetvā, “ayampi acetanā abyākatā suññā thaddhā pathavīdhātu evā”ti manasi kātabbaṃ. yaṃ vā panaññampīti idaṃ itaresu tīsu koṭṭhāsesu anugatāya pathavīdhātuyā gahaṇatthaṃ vuttaṃ. yā ceva kho pana ajjhattikā pathavīdhātūti yā ca ayaṃ vuttappakārā ajjhattikā pathavīdhātu. yā ca bāhirāti yā ca vibhaṅge, “ayo lohaṃ tipu sīsan”tiādinā (vibha. 173) nayena āgatā bāhirā pathavīdhātu.

Nhưng trong từ ‘bộ não’ không có trong Pāḷī trong bài Kinh này. Dầu vậy bộ não đó sau khi được xác định bởi màu sắc, hình dạng v.v, chính bằng cách đã được nói trong Thanh Tịnh Đạo mới tác y đúng đắn rằng “dẫu cho Giới (dhātu) này không có Tư (cetanā) làm Pháp vô ký, trống không, là thứ thổ thiển, cũng được xếp vào Địa Giới tương tự.” hoặc bất kỳ vật gì (yaṃ vā panaññampi): này ngài nói để xác định nắm lấy Địa Giới tồn tại trong phần thứ 3 còn lại. Và Địa Giới nào được vận hành ở bên trong (yā ceva kho pana ajjhattikā pathavīdhātū): Địa Giới có cách thức theo cách đã nói được xếp vào Địa Giới bên trong. Địa Giới bên ngoài: Địa Giới đến trong bộ Phân Tích, “Sắt, kim loại, thiếc, chì, v.v.” (vibha. 173). Được xếp vào ngoại Địa Giới.

ettāvatā therena ajjhattikā pathavīdhātu nānāsabhāvato vīsatiyā ākārehi vitthārena dassitā, bāhirā saṅkhepena. kasmā? yasmiñhi ṭhāne sattānaṃ ālayo nikanti patthanā pariyuṭṭhānaṃ gahaṇaṃ parāmāso balavā hoti, tattha tesaṃ ālayādīnaṃ uddharaṇatthaṃ buddhā vā buddhasāvakā vā vitthārakathaṃ kathenti. yattha pana na balavā, tattha kattabbakiccābhāvato saṅkhepena kathenti. yathā hi kassako khettaṃ kasamāno yattha mūlasantānakānaṃ balavatāya naṅgalaṃ laggati, tattha goṇe ṭhapetvā paṃsuṃ viyūhitvā mūlasantānakāni chetvā chetvā uddharanto bahuṃ vāyāmaṃ karoti. yattha tāni natthi, tattha balavaṃ payogaṃ katvā goṇe piṭṭhiyaṃ paharamāno kasatiyeva, evaṃsampadamidaṃ veditabbaṃ.

Chỉ chừng ấy lời Trưởng lão đã chỉ ra Địa Giới bên trong với 20 biểu hiện theo thực tính khác nhau một cách chi tiết, chỉ ra Địa Giới bên ngoài một cách vắn tắt. Tại sao? Bởi ở chỗ nào chúng sanh có sự quyến luyến, sự ham thích, sự ước mong, sự bộc phát, sự nắm lấy, sự bám chấp mạnh mẽ ở nơi đó chư Phật hoặc chư Thánh Thinh Văn đệ tử Phật nói một cách chi tiết nhằm nhổ bổ sự quyến luyến v.v, đó. Lại nữa ở nơi nào  sự quyến luyến v.v, của các chúng sanh không có năng lực, ở nơi đó ngài nói tóm tắt bởi không có phận sự để làm. Giống như người nông dân khi cày ruộng đã dừng xe bò ở chỗ lưỡi cày bị kẹt lại vì rễ cây và gốc cây dày đặc, (họ phải) đào đất lên rồi mới chặt rễ và khinh gốc cây lên, phải nỗ lực rất nhiều; còn ở nơi nào không có rễ và gốc cây thì (họ) không cần phải cố gắng quá nhiều, ở nơi đó chỉ cần đánh vào lưng con bò để nó tiếp tục cày bừa như thế nào thì ví dụ so sánh cũng nên biết như thế đó.

pathavīdhāturevesāti duvidhāpesā thaddhaṭṭhena kakkhaḷaṭṭhena pharusaṭṭhena ekalakkhaṇā pathavīdhātuyeva, āvusoti ajjhattikaṃ bāhirāya saddhiṃ yojetvā dasseti. yasmā bāhirāya pathavīdhātuyā acetanābhāvo pākaṭo, na ajjhattikāya, tasmā sā bāhirāya saddhiṃ ekasadisā acetanāyevāti gaṇhantassa sukhapariggaho hoti. yathā kiṃ? yathā dantena goṇena saddhiṃ yojito adanto katipāhameva visūkāyati vipphandati, atha na cirasseva damathaṃ upeti. evaṃ ajjhattikāpi bāhirāya saddhiṃ ekasadisāti gaṇhantassa katipāhameva acetanābhāvo P.2.224 na upaṭṭhāti, atha na cirenevassā acetanābhāvo pākaṭo hoti. taṃ netaṃ mamāti taṃ ubhayampi na etaṃ mama, na esohamasmi, na eso me attāti evaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya daṭṭhabbaṃ. yathābhūtanti yathāsabhāvaṃ, tañhi aniccādisabhāvaṃ, tasmā aniccaṃ dukkhamanattāti evaṃ daṭṭhabbanti attho.

Đó là Địa Giới (pathavīdhāturevesā): cả 2 Giới (dhātu) này có trạng thái đồng nhất với ý nghĩa rằng cứng, dày và thô đây cũng được xếp vào Địa Giới. Ngài trình bày phối hợp đặt ở bên trong và bên ngoài, cũng bởi vì Địa Giới bên ngoài hiện hữu không có Tư (cetanā), và Địa Giới bên trong cũng không hiện hữu như thế, vì thế hành giả xác định rằng: “Địa Giới bên ngoài đó tương đồng với Địa Giới bên trong, đều không có Tư (cetanā) tương tự mới xác định dễ dàng. So sanh giống điều gì? Giống như con bò không được huấn luyện với con bò đã được huấn luyện sẽ vùng vẫy vật lộn trong 2-3 ngày mà thôi, vì vậy, không qua lâu cũng thực hiện được như thế nào; Hành giả xác định rằng dầu là Địa Giới bên trong cũng giống như Địa Giới bên ngoài. Địa Giới cũng hiện hữu không có Tư (cetanā) chỉ trong 2-3 ngày, vì thế, như vậy, không bao lâu Địa Giới ở nơi đó cũng hiện hữu không có Tư (cetanā) như thế đó. Đó không phải của tôi (taṃ netaṃ mamā): Cả 2 Giới bạc trí giả nên thấy bằng trí tuệ đó chính xác theo đúng Pháp Thực Tính như vậy rằng ‘đó không phải của tôi’, ‘tôi không phải như vậy’, ‘đó không phải tự ngã của tôi’. Yathābhūtaṃ: đúng như thực tính, tức là cả 2 Giới (dhātu) quả thật có thực tính vô thường v.v, vì thế nên thấy (những thứ đó) như vầy “vô thường, khổ não, vô ngã”.

hoti kho so, āvusoti kasmā ārabhi? bāhirāapodhātuvasena bāhirāya pathavīdhātuyā vināsaṃ dassetvā tato visesatarena upādinnāya sarīraṭṭhakapathavīdhātuyā vināsadassanatthaṃ. pakuppatīti āposaṃvaṭṭavasena vaḍḍhamānā kuppati. antarahitā tasmiṃ samaye bāhirā pathavīdhātu hotīti tasmiṃ samaye koṭisatasahassacakkavāḷe khārodakena vilīyamānā udakānugatā hutvā sabbā pabbatādivasena saṇṭhitā pathavīdhātu antarahitā hoti. vilīyitvā udakameva hoti. tāva mahallikāyāti tāva mahantāya.

Tại sao ngài mới bắt đầu nói rằng ‘trong lúc Địa Giới vận hành bên trong (hoti kho so, āvuso)?’ Bởi vì trong khi trình bày sự tiêu hoại của Địa Giới bên ngoài với sức mạnh Thủy Giới bên ngoài, rồi chỉ ra sự tiêu hoại của Địa Giới mà được thiết lập trong sắc thân, là Sắc Y Đại Sinh đặc biệt hơn đó. pakuppati (dao động): bị dao động bởi sức mạnh hủy diệt của nước. Trong thời ấy Địa Giới bên ngoài bị biến mất (antarahitā tasmiṃ samaye bāhirā pathavīdhātu hoti): thời ấy Địa Giới bị hoại diệt bởi nước kiềm trong một trăm nghìn Koṭi vũ trụ chảy theo dòng nước từ những ngọn núi, tất cả chúng đều biến mất, hòa tan hoàn toàn vào nước. tāva mahallikāya (to lớn như thế): to lớn chứng ấy.

duve satasahassāni, cattāri nahutāni ca.

ettakaṃ bahalattena, saṅkhātāyaṃ vasundharāti.

evaṃ bahalatteneva mahantāya, vitthārato pana koṭisatasahassacakkavāḷappamāṇāya. aniccatāti hutvā abhāvatā. khayadhammatāti khayaṃ gamanasabhāvatā vayadhammatāti vayaṃ gamanasabhāvatā. vipariṇāmadhammatāti pakativijahanasabhāvatā, iti sabbehipi imehi padehi aniccalakkhaṇameva vuttaṃ. yaṃ pana aniccaṃ, taṃ dukkhaṃ. yaṃ dukkhaṃ, taṃ anattāti tīṇipi lakkhaṇāni āgatāneva honti. mattaṭṭhakassāti parittaṭṭhitikassa, tattha dvīhākārehi imassa kāyassa parittaṭṭhititā veditabbā ṭhitiparittatāya ca sarasaparittatāya ca. ayañhi atīte cittakkhaṇe jīvittha, na jīvati, na jīvissati. anāgate cittakkhaṇe jīvissati, na jīvati, na jīvittha. paccuppanne cittakkhaṇe jīvati, na jīvittha, na jīvissatīti vuccati.

Được gọi là to lớn bởi có sự dày đặc như vầy: Mặt đất to lớn này nói theo khía cạnh dày, ước chừng khoảng hai trăm bốn mười nghìn do-tuần. Nhưng mà theo chiều ngang có ước chừng trăm nghìn Koṭi vũ trụ bằng cách này. Tính chất vô thường (aniccatā): có rồi không. Có bản tánh suy tàn (khayadhammatā): có bản tánh suy tàn là thực tính. Có bản tánh biến hoại (vayadhammatā): có bản tánh suy tàn là thực tính. Có bản tánh thay đổi (vipariṇāmadhammatā): thực tính rời bỏ là thường. Ngài nói đến trạng thái vô thường duy nhất đặt ở mọi câu với cách này. Cả 3 trạng thái đến theo Pāḷī rằng cái gì là vô thường, cái đó là khổ; cái gì là khổ, cái đó là vô ngã. Mattaṭṭhakassā dịch là được thiết lập trong thời gian ngắn. Trong câu đó nên biết rằng thân này duy trì trong khoảng thời gian ngắn bởi 2 biểu hiện là trú chút ít và có phận sự nhỏ nhoi. Quả thật, thân này ngài nói rằng Đã sống ở sát-na tâm quá khứ thì không sống (ở hiện tại), thì sẽ không sống (ở vị lai); sẽ sống ở sát-na tâm vị lai thì không sống (ở hiện tại), đã không sống (ở quá khứ); đang sống ở sát-na tâm hiện tại thì đã không sống (ở quá khứ), thì sẽ không sống (ở vị lai).

“jīvitaṃ attabhāvo ca, sukhadukkhā ca kevalā.

ekacittasamāyuttā, lahu so vattate khaṇo”ti. —

idaṃ etasseva parittaṭṭhitidassanatthaṃ vuttaṃ. evaṃ ṭhitiparittatāya parittaṭṭhititā veditabbā.

Để chỉ ra chính cái thân này duy trì (sự sống) ngắn ngủi, ngài nói như vầy – “mạng sống, tự ngã, lạc và khổ toàn bộ điều này (cả 3) gắn liền với một tâm duy nhất”, sát-na tâm diễn ra nhanh chóng. Nên biết rằng thân này được duy trì trong thời gian ngắn ngủi bởi được duy trì trong thời gian ngắn ngủi như vậy.

assāsapassāsūpanibaddhādibhāvena panassa sarasaparittatā veditabbā. sattānañhi assāsūpanibaddhaṃ jīvitaṃ, passāsūpanibaddhaṃ jīvitaṃ, assāsapassāsūpanibaddhaṃ jīvitaṃ, mahābhūtūpanibaddhaṃ jīvitaṃ, kabaḷīkārāhārūpanibaddhaṃ jīvitaṃ, viññāṇūpanibaddhaṃ jīvitanti visuddhimagge vitthāritaṃ.

Hơn nữa, nên biết rằng thân này có phận sự chút ít do nhờ hơi thở vào và hơi thở ra v.v, thât vậy, tất cả chúng sanh có mạng sống do nhờ hơi thở vào, do nhờ hơi thở ra, do nhờ hơi thở vào và cả hơi thở ra, do nhờ bốn Sắc Đại Hiển, do nhờ thọ dụng vật thực, do nhờ Thức, toàn bộ điều này đã được nói chi tiết trong Thanh Tịnh Đạo.

taṇhupādinnassāti taṇhāya ādinnagahitaparāmaṭṭhassa ahanti vā mamanti vā asmīti vā. atha khvāssa notevettha hotīti atha kho assa bhikkhuno evaṃ tīṇi lakkhaṇāni āropetvā passantassa ettha ajjhattikāya pathavīdhātuyā ahanti vātiādi tividho taṇhāmānadiṭṭhiggāho noteva hoti, na hotiyevāti attho. yathā ca āpodhātuvasena, evaṃ tejodhātuvāyodhātuvasenapi bāhirāya pathavīdhātuyā antaradhānaṃ hoti. idha pana ekaṃyeva āgataṃ. itarānipi atthato veditabbāni.

taṇhupādinnassa dịch là bị tham ái chấp thủ, gồm đã bám níu, đã bám lấy, đã bám chấp cho rằng ‘ tôi, là của tôi, hay tôi là’.  Khi đó sự chấp thủ trong  Địa Giới ấy không có (atha khvāssa notevettha hoti): khi đó vị Tỳ khưu ấy đã đặt (Địa Giới) vào Tam Tướng quán xét như vầy sẽ không có sự nắm lấy là Tham ái, Ngã mạn và Tà kiến cả 3 Pháp này trong Địa Giới bên trong (cho rằng) đây là ta v.v, tức là không còn nữa. Địa Giới bên ngoài biến mất với sức mạnh của Hỏa Giới, Phong Giới. Giống như biến mất bởi sức mạnh của Thủy Giới. Nhưng trong trường hợp này chỉ đến một mình mà thôi. Ngoài ra cũng nên biết theo ý nghĩa tương tự.

tañce, āvusoti idha tassa dhātukammaṭṭhānikassa bhikkhuno sotadvāre pariggahaṃ paṭṭhapento balaṃ dasseti. akkosantīti dasahi akkosavatthūhi akkosanti. paribhāsantīti tayā idañcidañca kataṃ, evañca evañca taṃ karissāmāti vācāya paribhāsanti. rosentīti ghaṭṭenti. vihesentīti dukkhāpenti, sabbaṃ vācāya ghaṭṭanameva vuttaṃ. so evanti so dhātukammaṭṭhāniko M.2.129 evaṃ sampajānāti. uppannā kho me ayanti sampativattamānuppannabhāvena ca samudācāruppannabhāvena ca uppannā.

Này hiền giả, nếu những người khác mắng nhiếc (tañce, āvuso) này Trưởng lão khi bắt đầu thực hiện việc xác định đối tượng ở trong Nhĩ Môn của vị Tỳ khưu thực hành Giới Nghiệp Xứ (dhātukammaṭṭhāna) ấy mới thuyết đến sức mạnh. Mắng nhiếc (akkosaṃ): mắng nhiếc bằng mười sự mạ lỵ. Khiển trách (paribhāsanti): kiềm chế bằng lời nói rằng ngài làm như thế như thế, tôi sẽ trừng phạt ngài như thế đó. Mỉa mai (rosenti): chế nhạo (châm biếm). Gây hại (vihesenti): làm cho khó khăn. Ngài chỉ đề cập đến sự mỉa mai bằng lời nói đến tất cả. Vị Tỳ khưu ấy biết rõ như vậy (so evaṃ): vị Tỳ khưu thực hành Giới Nghiệp Xứ (dhātukammaṭṭhāna) ấy biết rõ như vậy. Đã sanh khởi nơi ta (uppannā kho me ayaṃ) nghĩa là đã sanh khởi do 4 Giới (dhāru) sanh khởi vận hành xảy ra đồng thời ở hiện tại và sanh khởi do sự thực hành liên tục.

sotasamphassajāti upanissayavasena sotasamphassato jātā sotadvārajavanavedanā, phasso aniccoti sotasamphasso hutvā abhāvaṭṭhena aniccoti passati. vedanādayopi V.2.125 sotasamphassasampayuttāva veditabbā. dhātārammaṇamevāti dhātusaṅkhātameva ārammaṇaṃ. pakkhandatīti otarati. pasīdatīti tasmiṃ ārammaṇe pasīdati, bhummavacanameva vā etaṃ. byañjanasandhivasena “dhātārammaṇamevā”ti vuttaṃ, dhātārammaṇeyevāti ayamettha attho. adhimuccatīti dhātuvasena evanti adhimokkhaṃ labhati, na rajjati, na dussati. ayañhi P.2.226 sotadvāramhi ārammaṇe āpāthagate mūlapariññāāgantukatāvakālikavasena pariggahaṃ karoti, tassa vitthārakathā satipaṭṭhāne satisampajaññapabbe vuttā. sā pana tattha cakkhudvāravasena vuttā, idha sotadvāravasena veditabbā.

Sanh lên do sự xúc chạm của nhĩ (sotasamphassajā): Cảm thọ thúc đẩy qua lộ Nhĩ môn sanh khởi từ sự xúc chạm của nhĩ với mãnh lực của Cận Y Duyên (upanissaya). Xúc là vô thường (phasso anicco): ngài thuyết rằng sự xúc chạm của nhĩ là vô thường bởi ý nghĩa ‘có rồi không (mất)’, ngay cả thọ v.v, nên hiểu rằng tương ưng với sự xúc chạm của nhĩ tương tự. Có Giới là đối tượng (dhātārammaṇameva): đối tượng được nói là chính là Giới (dhātu). Hân hoan (pakkhandati): đi tới. Trở nên chói sáng (pasīdati): trong sạch nơi đối tượng. Hơn nữa, từ đó chỉ là định sở cách. Với quy luật hợp âm phụ âm ngài nói rằng ‘dhātārammaṇamevā’ có ý nghĩa như từ ‘dhātārammaṇeyeva’ trong đối tượng là Giới (dhātu). Với mãnh lực Giới (dhātu) từ ‘được thoát khỏi’ này có ý nghĩa tương đồng với ‘quyết định chắc chắn’, không hoan hỷ, cũng không giận dữ. Quả thật, vị Tỳ khưu thực hành Giới Nghiệp Xứ này trong khi đối tượng xuất hiện trong Nhĩ môn, (vị ấy) xác định rằng là gốc, là đối tượng cần phải nhận biết, là đối tượng khách đến, là đối tượng khởi lên nhất thời. Câu chuyện chi tiết của đối tượng đó được nói trong phần Chánh Niệm và Tỉnh Giác trong Kinh Thiết Lập Niệm. Nhưng Cảm thọ ấy được nói trọng Kinh Thiết Lập Niệm với mãnh lực của Nhãn môn. Ở đây nên biết với mãnh lực Nhĩ môn.

evaṃ katapariggahassa hi dhātukammaṭṭhānikassa balavavipassakassa sacepi cakkhudvārādīsu ārammaṇe āpāthagate ayoniso āvajjanaṃ uppajjati, voṭṭhabbanaṃ patvā ekaṃ dve vāre āsevanaṃ labhitvā cittaṃ bhavaṅgameva otarati, na rāgādivasena uppajjati, ayaṃ koṭippatto tikkhavipassako. aparassa rāgādivasena ekaṃ vāraṃ javanaṃ javati, javanapariyosāne pana rāgādivasena evaṃ me javanaṃ javitanti āvajjato ārammaṇaṃ pariggahitameva hoti, puna vāraṃ tathā na javati. aparassa ekavāraṃ evaṃ āvajjato puna dutiyavāraṃ rāgādivasena javanaṃ javatiyeva, dutiyavārāvasāne pana evaṃ me javanaṃ javitanti āvajjato ārammaṇaṃ pariggahitameva hoti, tatiyavāre tathā na uppajjati. ettha pana paṭhamo atitikkho, tatiyo atimando, dutiyassa pana vasena imasmiṃ sutte, laṭukikopame, indriyabhāvane ca ayamattho veditabbo.

Như vậy quả thật vị Tỳ khưu thực hành Giới Nghiệp Xứ, hành giả sau khi thực hành việc xác định rồi tu tập Minh Sát mãnh liệt, thậm chí khi đối tượng đến hiện hữu trong Nhãn môn v.v, khởi lên Tâm khai môn, Tâm xác định với tác ý không đúng đắn, cho đến Tâm xác định nhận được sự lập đi lập lại của sáu đổng lực tâm trước (āsevana-citta) một lần hoặc hai lần, tâm đó cũng rơi vào Tâm hộ kiếp như cũ, không khởi lên với mãnh lực của luyến ái v.v, vị Tỳ khưu này đạt đến tận cùng của Minh Sát tinh nhuệ. Một vị Tỳ khưu khởi lên động lực Tâm duy nhất với mạnh lực luyến ái v.v, nhưng cuối cùng đổng lực Tâm vị ấy suy nghĩ với mãnh lực luyến ái rằng ‘Đổng lực Tâm khởi lên nơi ta gọi là đã xác định được đối tượng, không khởi lên như thế thêm nữa.” Một vị Tỳ khưu nghĩ đến một lần cũng khởi lên Tâm đổng lực với mãnh lực ái luyến v.v, là lần thứ hai và khi kết thúc lần thứ 2 khi suy nghĩ rằng đổng lực Tâm sanh khởi cũng tôi như vậy là sự xác định đối tượng tương tự. Trong lần thứ 3 cũng không sanh khởi như thế. Trong số 3 vị Tỳ khưu đó, vị thứ nhất tinh nhuệ, vị thứ ba yếu ớt. Mặt dầu với sức mạnh vị thứ hai nên biết rằng ý nghĩa này trong bài Kinh này có loài chim cút là câu chuyện ví dụ trong thực tính là Quyền (indriya).

evaṃ sotadvāre pariggahitavasena dhātukammaṭṭhānikassa balaṃ dassetvā idāni kāyadvāre dīpento tañce, āvusotiādimāha. aniṭṭhārammaṇañhi patvā dvīsu vāresu kilamati sotadvāre ca kāyadvāre ca. tasmā yathā nāma khettassāmī puriso kudālaṃ gahetvā khettaṃ anusañcaranto yattha vā tattha vā mattikapiṇḍaṃ adatvā dubbalaṭṭhānesuyeva kudālena bhūmiṃ bhinditvā satiṇamattikapiṇḍaṃ deti. evameva mahāthero anāgate sikkhākāmā padhānakammikā kulaputtā imesu dvāresu saṃvaraṃ paṭṭhapetvā khippameva jātijarāmaraṇassa antaṃ karissantīti imesuyeva dvīsu dvāresu gāḷhaṃ katvā saṃvaraṃ desento imaṃ desanaṃ ārabhi.

Trưởng lão khi trình bày năng lực của vị Tỳ khưu, vị thực hành Giới Nghiệp Xứ với mãnh lực xác định Nhĩ môn như vầy rồi. Bây giờ,  khi trình bày Thân môn mới nói rằng: “Nếu người khác làm hại vị Tỳ khưu đó…”. Quả thật, vị Tỳ khưu đã đạt đến đối tượng xấu khó khăn trong cả 2 môn là Nhĩ môn và Thân môn. Vì thế, Đại Trưởng lão nghĩ rằng trong thời vị lai thiện nam tử, người có nhu cầu học tập thực hành sự tinh tấn, đạt đến sự thu thúc trong cả 2 môn này sẽ chấm dứt sự sanh và sự chết ngay lập tức, giống như chủ nhân của một đồng ruộng, cầm lấy xẻng đi quan sát cánh đồng, không cần vun đất thành luống ở mọi chỗ (mà chỉ) lấy xẻng cuốc đất ở nơi có lồi lõm, thêm đất ơ nơi có cỏ che lấp, khi thuyết giảng việc thu thúc trong cả 2 môn này cho kiên cố mới bắt đầu thuyết giảng.

tattha samudācarantīti upakkamanti. pāṇisamphassenāti P.2.227 pāṇippahārena, itaresupi eseva nayo. tathābhūtoti tathāsabhāvo. yathābhūtasminti yathāsabhāve. kamantīti pavattanti. evaṃ buddhaṃ anussaratotiādīsu itipi so bhagavātiādinā nayena anussarantopi buddhaṃ anussarati, vuttaṃ kho panetaṃ bhagavatāti anussarantopi anussaratiyeva. svākkhāto bhagavatā dhammotiādinā nayena anussarantopi dhammaṃ anussarati, kakacūpamovādaṃ anussarantopi anussaratiyeva. suppaṭipannotiādinā nayena anussarantopi saṅghaṃ anussarati, kakacokantanaṃ adhivāsayamānassa bhikkhuno guṇaṃ anussaramānopi anussaratiyeva.

Ở đó, làm hại (samudācaranti): cố gắng pāṇisamphassena đồng nghĩa với pāṇippahārena (làm hại bằng tay). Cả những từ còn lại cũng có cách thức tương tự. Là nơi chấp nhận việc làm hại (tathābhūto): có thực tánh như thế. Là nơi chấp nhận (yathābhūtasmiṃ): Theo thực tánh. Kamanti: vận hành. Nên biết lý giải trong câu sau: Tùy niệm đến (ân đức) Phật như vầy (evaṃ buddhaṃ anussarato): vị Tỳ khưu thực hành 4 Giới Nghiệp Xứ (có đất v.v,) trong khi tùy niệm theo cách thức sau: “itipi so bhagavā” là tùy niệm đến (ân đức) Phật, là khi nhớ đến rằng “lời này đức Thế Tôn đã thuyết” cũng gọi là tùy niệm (đến đức Phật) tương tự. Thậm chí khi tùy niệm Pháp theo cách thức sau: “Pháp đã được đức Thế Tôn khéo thuyết” gọi là tùy niệm Pháp, ngay cả nhớ đến bài Kinh Kakacūpamovāda cũng gọi là tùy niệm (đến Pháp) tương tự. Thậm chí nhớ đến theo cách thức sau “Chư Thánh Tăng đệ tử của Đức Thế Tôn là những bậc đã thực hành nghiêm chỉnh đúng theo lời giáo huấn của Đức Thế Tôn” gọi là tùy niệm đến chư Tăng, ngay cả nhớ đến đức hạnh của vị Tỳ khưu kiềm chế việc cắt đoạn bằng cái cưa cũng gọi là tùy niệm (đến Tăng) tương tự.

upekkhā kusalanissitā na saṇṭhātīti idha vipassanupekkhā adhippetā. upekkhā kusalanissitā saṇṭhātiti idha chaḷaṅgupekkhā, sā panesā kiñcāpi khīṇāsavassa iṭṭhāniṭṭhesu ārammaṇesu arajjanādivasena pavattati, ayaṃ pana bhikkhu vīriyabalena bhāvanāsiddhiyā attano vipassanaṃ khīṇāsavassa chaḷaṅgupekkhāṭhāne ṭhapetīti vipassanāva chaḷaṅgupekkhā nāma jātā.

Thọ xả tương ưng với thiện không được thiết lập (upekkhā kusalanissitā na saṇṭhāti) này ngài có ý muốn nói đến Pháp quán xả (vipassanupekkhā). Thọ xả tương ưng với thiện được thiết lập (upekkhā kusalanissitā saṇṭhāti) này ngài có ý muốn nói đến thọ xả có 6 chi. Thọ xả có 6 chi này đây được vận hành bởi mãnh lực sự không hoan hỷ v.v, trong đối tượng tốt và đối tượng cực xấu của vị đã cạn kiệt mọi lậu hoặc, mặc dầu vậy vị Tỳ khưu này an trú Pháp quán của chính mình với sự thành tựu của thiền theo năng lực của sự tinh tấn ở vị trí của lục chi xả của bậc lậu tận. Vì thế, Pháp quán Vipassanā gọi là lục chi xả (Pháp quán xả).

  1. āpodhātuniddese āpogatanti sabbāapesu gataṃ allayūsabhāvalakkhaṇaṃ. pittaṃ semhantiādīsu pana yaṃ vattabbaṃ, taṃ sabbaṃ saddhiṃ bhāvanānayena visuddhimagge vuttaṃ. pakuppatīti oghavasena vaḍḍhati, samuddato vā udakaṃ uttarati, ayamassa pākatiko pakopo, āposaṃvaṭṭakāle pana koṭisatasahassacakkavāḷaṃ udakapūrameva hoti. ogacchantīti heṭṭhā gacchanti, uddhane āropitaudakaṃ viya khayaṃ vināsaṃ pāpuṇanti. sesaṃ purimanayeneva veditabbaṃ.
  2. Nên biết lý giải phần diễn giải Thủy Giới như sau: Những thứ tươm ướt (āpogataṃ) gồm sự chấp thủ của sắc thấm vào trong toàn bộ Thủy Giới có trạng thái là ẩm ướt. Lời nên nói trong từ ‘mật đàm (pittaṃ semhaṃ)’ v.v,v tất cả cùng với cách thức của sự tu tập đã được nói trong Thanh Tịnh Đạo. Tăng thêm (pakuppati): tuôn chảy thành dòng nước lũ hay tràn ra từ đại dương. Nó làm nguy ngập thêm là thường như vậy. Thời gian thế giới bị hủy diệt bởi với Thủy Giới. Lún xuống (ogacchanti): chảy xuống phía dưới đi đến sự hoại diệt, giống như nước nâng lên trên lò lửa. Các từ còn lại nên biết theo phương thức trước đó.
  3. tejodhātuniddese tejogatanti sabbatejesu gataṃ uṇhattalakkhaṇaṃ. tejo eva vā tejobhāvaṃ gatanti tejogataṃ. purime āpogatepi pacchime vāyogatepi eseva nayo. yena cāti yena tejogatena. tasmiṃ kuppite ayaṃ kāyo santappati, ekāhikajarādibhāvena usumajāto hoti. yena ca jīrīyatīti yena ayaṃ kāyo jīrati, indriyavekallattaṃ balaparikkhayaṃ valipalitādibhāvañca pāpuṇāti. yena ca pariḍayhatīti yena kuppitena ayaṃ kāyo dayhati, so ca puggalo dayhāmi P.2.228 dayhāmīti kandanto satadhotasappigosītacandanādilepañca V.2.127 tālavaṇṭavātañca paccāsīsati. yena ca asitapītakhāyitasāyitaṃ sammā pariṇāmaṃ gacchatīti yena taṃ asitaṃ vā odanādi, pītaṃ vā pānakādi, khāyitaṃ vā piṭṭhakhajjakādi, sāyitaṃ vā ambapakkamadhuphāṇitādi sammā paripākaṃ gacchati, rasādibhāvena vivekaṃ gacchatīti attho. ayamettha saṅkhepo. vitthārato pana yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ sabbaṃ saddhiṃ bhāvanānayena visuddhimagge vuttaṃ.
  4. Nên biết diễn giải Hỏa Giới như sau: Đi đến nóng bức (tejogataṃ): toàn bộ sắc thủ ở trong tất cả Hòa Giới có trạng thái nóng. Hơn nữa, gọi là đi đến nóng bức bởi ở trong tính chất nóng là Hỏa Giới. Ở trong Thủy Giới đầu tiên, hay ở trong Thuỷ Giới sau cũng cách thức này tương tự. yena ca: với Hỏa Giới nào khi tăng lên thì thân này cũng trở nên nóng đốt, lá sự ấm áp theo tính chất suy sụp tồn tại cả ngày v.v, Khiến cho bị hủy hoại (yena ca jīrīyati): Thân này hao mòn do Hỏa Giới nào, người cũng có Quyền thiếu hụt, mất năng lực, da nhăn, tóc bạc v.v, bởi Hỏa Giới đó. Khiến cho bị nóng đốt (yena ca pariḍayhati): thân này bị nóng đốt bởi Hỏa Giới nào đã tăng lên rồi người đó than phiền rằng nóng quá nóng quá, hy vọng được xoa bóp với bơ lỏng, gỗ đàn hương và gỗ đàn hương đỏ trộn với bơ lỏng một trăm lần và gió (làm mát) được quạt từ quạt lá cọ. Đã ăn, đã uống, đã nhai và đã nếm (yena ca asitapītakhāyitasāyitaṃ sammā pariṇāmaṃ gacchati): cơm v.v, đã ăn, hay nước uống v.v, đã uống, hay bánh và vật thực mền v.v, đã nhai, hay xoài chín, mật ong và nước mía v.v, đã nếm được tiêu hóa dễ dàng, là chuyển hóa thành chất bổ. Trong trương hợp này có ý nghĩa vắn tắt, còn lời giảng giải chi tiết nên biết rằng toàn bộ cùng với (phương pháp) tu tập được nói trong Thanh Tịnh Đạo.

haritantanti haritameva. allatiṇādiṃ āgamma nibbāyatīti attho. panthantanti mahāmaggameva. selantanti pabbataṃ. udakantanti udakaṃ. ramaṇīyaṃ vā bhūmibhāganti tiṇagumbādirahitaṃ, vivittaṃ abbhokāsaṃ bhūmibhāgaṃ. anāhārāti nirāhārā nirupādānā, ayampi pakatiyāva tejovikāro vutto, tejosaṃvaṭṭakāle pana koṭisatasahassacakkavāḷaṃ jhāpetvā chārikāmattampi na tiṭṭhati. nhārudaddulenāti cammanillekhanena. aggiṃ gavesantīti evarūpaṃ sukhumaṃ upādānaṃ gahetvā aggiṃ pariyesanti, yaṃ appamattakampi usumaṃ labhitvā pajjalati, sesamidhāpi purimanayeneva veditabbaṃ.

Cỏ tươi (haritantaṃ): những thứ tươi xanh mà thôi. tức là Hỏa Giới nương vào cỏ tươi v.v, cũng diệt. Con đường (panthantaṃ): chính con đường lớn. Selantaṃ đồng nghĩa với pabbataṃ (núi). Udakantaṃ đồng nghĩa với udaka (nước). Hoặc vùng đất bằng phẳng (ramaṇīyaṃ vā bhūmibhāgaṃ): vùng đất không có cỏ và bụi cây v.v, chỗ trống, vùng đất trơ trụi. Anāhārā: không có thức ăn, không có nhiên liệu. ngài nói sự biến hoại của Hỏa Giới theo lẽ thường như vậy. Trong thời gian thế giới bị hủy diệt bởi Hỏa Giới, Hỏa Giới cũng thiêu đốt hàng ngàn Koṭi vũ trụ, thậm chí một chút tro bụi cũng không còn. Nhārudaddulena: với phần còn lại của miếng da. Đi tìm kiếm ngọn lửa (aggiṃ gavesanti): mọi người nắm lấy nhiên liệu vi tế bằng hình thức như vậy đi tìm kiếm lửa, đã nhận được chút ít hơi ấm nó cũng bốc cháy. Các từ còn lại ở đây nên biết theo cách thức trước đó.

  1. vāyodhātuniddese uddhaṅgamā vātāti uggārahikkārādipavattakā uddhaṃ ārohanavātā. adhogamā vātāti uccārapassāvādinīharaṇakā adho orohanavātā. kucchisayā vātāti antānaṃ bahivātā. koṭṭhāsayā vātāti antānaṃ antovātā. aṅgamaṅgānusārinoti dhamanījālānusārena sakalasarīre aṅgamaṅgāni anusaṭā samiñjanapasāraṇādinibbattakavātā. assāsoti antopavisananāsikavāto M.2.132. passāsoti bahinikkhamananāsikavāto. ayamettha saṅkhepo. vitthārato pana yaṃ vattabbaṃ siyā, taṃ sabbaṃ saddhiṃ bhāvanānayena visuddhimagge vuttaṃ.

Trong phần giảng giải Phong Giới, gió thổi lên trên (uddhaṅgamā vātā): gió thổi lên trên diễn ra theo biểu hiện có ợ hơi và nấc cụt. Gió thổi xuống phía dưới (adhogamā vātā), tức là gió thổi xuống phía dưới như việc đại tiện, tiểu tiện, v.v. Gió trong bụng (kucchisayā vātā) bao gồm gió thổi ngoài ruột già. Gió bên trong đường ruột (koṭṭhāsayā vātā) là gió bên trong ruột già. Gió lưu chuyển khắp thân thể (aṅgamaṅgānusārino) là gió phát sinh từ việc cúi xuống, duỗi (tay chân) và lan tỏa lưu chuyển khắp các bộ phận của cơ thể dọc theo các sợi gân. Hơi thở vào (assaso) là hơi thở vào. Từ passaso là hơi thở ra. Trong trường hợp này có ý nghĩa vắn tắt, còn phần giảng giải chi tiết, tất cả lời nói đó nên biết cùng với phương pháp tu tập được nói trong bộ Thanh Tịnh Đạo.

gāmampi vahatīti sakalagāmampi cuṇṇavicuṇṇaṃ kurumānā ādāya gacchati, nigamādīsupi eseva nayo. idha vāyosaṃvaṭṭakāle koṭisatasahassacakkavāḷaviddhaṃsanavasena P.2.229 vāyodhātuvikāro dassito. vidhūpanenāti aggibījanakena. ossavaneti chadanagge, tena hi udakaṃ savati, tasmā taṃ “ossavanan”ti vuccati. sesamidhāpi purimanayeneva yojetabbaṃ.

Gió cuốn trôi các làng (gāmampi vahati): thổi bay toàn bộ nhà cửa vụn thành từng mảnh, cả ở những thị trấn cũng theo cách thức này tương tự. Khi thế giới bị hủy diệt bởi cơn gió này, ngài chỉ ra việc thay đổi Phong Giới với sức mạnh tiêu diệt hàng trăm nghìn Koṭi vũ trụ. Bởi sự đốt nóng (vidhūpanena): Thổi bay bởi lửa. Mái hiên (ossavane) gồm cả mái hiên (mái che). nước chảy theo mái hiên ấy, vì thế ngài gọi cái mái hiên là ossavana. Từ còn lại ở đây cần phối hợp với cách trước.

  1. seyyathāpi V.2.128, āvusoti idha kiṃ dasseti? heṭṭhā kathitānaṃ mahābhūtānaṃ nissattabhāvaṃ. kaṭṭhanti dabbasambhāraṃ. vallinti ābandhanavalliṃ. tiṇanti chadanatiṇaṃ. mattikanti anulepamattikaṃ. ākāso parivāritoti etāni kaṭṭhādīni anto ca bahi ca parivāretvā ākāso ṭhitoti attho. agāraṃtveva saṅkhaṃ gacchatīti agāranti paṇṇattimattaṃ hoti. kaṭṭhādīsu pana visuṃ visuṃ rāsikatesu kaṭṭharāsivallirāsītveva vuccati. evameva khoti evameva aṭṭhiādīni anto ca bahi ca parivāretvā ṭhito ākāso, tāneva aṭṭhiādīni paṭicca rūpaṃtveva saṅkhaṃ gacchati, sarīranti vohāraṃ gacchati. yathā kaṭṭhādīni paṭicca gehanti saṅkhaṃ gataṃ agāraṃ khattiyagehaṃ brāhmaṇagehanti vuccati, evamidampi khattiyasarīraṃ brāhmaṇasarīranti vuccati, na hettha koci satto vā jīvo vā vijjati.

Seyyathāpi āvuso này ngài trình bày đến điều gì? ngài trình bày đến Sắc Đại Hiển đã được trình bày trước đó, phần sau không phải chúng sanh. Gỗ (kaṭṭhaṃ) gồm những dụng cụ xây dựng. Dây leo (valliṃ): dây leo để cột trói. Cỏ (tiṇaṃ): cỏ để bao xung quanh. Đất sét (mattikaṃ): đất để to trét. ākāso parivārito: có khoảng trống bao quanh gỗ ấy v.v, cả bên trong lẫn bên ngoài. Từ ‘nhà’ trong cụm từ ‘được gọi là ngôi nhà’ chỉ là sự chế định, nhưng gỗ v.v, được chia thành từng đống, từng đống chỉ gọi là đống gỗ, đống dây leo mà thôi. evameva kho nghĩa là khoảng trống bao quanh đống xương cả bên trong lẫn bên ngoài, dựa vào bộ xương v.v, đó đều được gọi là Sắc tương tự. Ngôi nhà dựa vào cây gỗ v.v, gọi là ‘ngôi nhà’, ngài gọi là ngôi nhà Sát-đế-lị, ngôi nhà Bà-la-môn như thế nào; ngay cả Sắc này cũng tương tự như vậy, ngài gọi là sắc thân Sát-đế-lị, sắc thân Bà-la-môn. Quả thật ở đây không có thực tính nào gọi là chúng sanh hoặc sự sống.

ajjhattikañceva, āvuso, cakkhūti idaṃ kasmā āraddhaṃ? heṭṭhā upādārūpaṃ cattāro ca arūpino khandhā tīṇi ca ariyasaccāni na kathitāni, idāni tāni kathetuṃ ayaṃ desanā āraddhāti. tattha cakkhuṃ aparibhinnanti cakkhupasāde niruddhepi upahatepi pittasemhalohitehi palibuddhepi cakkhu cakkhuviññāṇassa paccayo bhavituṃ na sakkoti, paribhinnameva hoti, cakkhuviññāṇassa pana paccayo bhavituṃ samatthaṃ aparibhinnaṃ nāma. bāhirā ca rūpāti bāhirā catusamuṭṭhānikarūpā. tajjo samannāhāroti taṃ cakkhuñca rūpe ca paṭicca bhavaṅgaṃ āvaṭṭetvā uppajjanamanasikāro, bhavaṅgāvaṭṭanasamatthaṃ cakkhudvāre M.2.133 kiriyamanodhātucittanti attho. taṃ rūpānaṃ anāpāthagatattāpi aññāvihitassapi na hoti, tajjassāti tadanurūpassa. viññāṇabhāgassāti viññāṇakoṭṭhāsassa.

Này hiền giả, nhãn vận hành bên trong (ajjhattikañceva, āvuso, cakkhū): này ngài bắt đầu vì sao? Bởi vì Sắc Thủ, 4 Vô Sắc Uẩn, và 3 Thánh Đế ngài không thuyết trước. Bây giờ để nói đến Sắc Thủ v.v, đó ngài mới bắt đầu thuyết (những Pháp này). Ở đó, mắt không bị hoại (cakkhuṃ aparibhinnaṃ): trong khi Thần Kinh Nhãn diệt, hay bị đối tượng bên ngoài ngăn chặn, hay mật, đàm, máu mủ cột chặt Thần Kinh Nhãn làm duyên cho Nhãn Thức xem là bị bẻ gãy nhưng nếu có thể làm duyên cho Nhãn Thức được gọi là không bị bẻ gãy. Toàn bộ ngoại Sắc (bāhirā ca rūpā): Sắc có bốn sở sanh bên ngoài. Sự chú tâm khởi sanh từ Nhãn và Sắc (tajjo samannāhāro) bao gồm nương Nhãn và Sắc, suy xét đến tâm Hộ kiếp rồi khởi lên Tác ý. Tức là Tâm tố ý giới trong Nhãn môn có thể suy xét đến Tâm hộ kiếp, Tâm tố ý giới đó không chỉ cùng người hướng tâm đến chỗ khác do đối tượng Sắc không xuất hiện. Tajjassa: phù hợp cùng tâm đó. Viññāṇabhāgassa: phần của Thức sanh khởi từ con mắt.

yaṃ tathābhūtassātiādīsu dvāravasena cattāri saccāni P.2.230 dasseti. tattha tathābhūtassāti cakkhuviññāṇena sahabhūtassa, cakkhuviññāṇasamaṅginoti attho. rūpanti cakkhuviññāṇassa na rūpajanakattā cakkhuviññāṇakkhaṇe tisamuṭṭhānarūpaṃ, tadanantaracittakkhaṇe catusamuṭṭhānampi labbhati. saṅgahaṃ gacchatīti gaṇanaṃ gacchati. vedanādayo cakkhuviññāṇasampayuttāva. viññāṇampi cakkhuviññāṇameva. ettha ca saṅkhārāti cetanāva vuttā. saṅgahoti ekato saṅgaho. sannipātoti samāgamo. samavāyoti rāsi. yo paṭiccasamuppādaṃ passatīti yo paccaye passati. so dhammaṃ passatīti so paṭiccasamuppannadhamme passati, chandotiādi sabbaṃ taṇhāvevacanameva V.2.129, taṇhā hi chandakaraṇavasena chando. ālayakaraṇavasena ālayo. anunayakaraṇavasena anunayo. ajjhogāhitvā gilitvā gahanavasena ajjhosānanti vuccati. chandarāgavinayo chandarāgappahānanti nibbānasseva vevacanaṃ, iti tīṇi saccāni pāḷiyaṃ āgatāneva maggasaccaṃ āharitvā gahetabbaṃ, yā imesu tīsu ṭhānesu diṭṭhi saṅkappo vācā kammanto ājīvo vāyāmo sati samādhi bhāvanāpaṭivedho, ayaṃ maggoti. bahukataṃ hotīti ettāvatāpi bahuṃ bhagavato sāsanaṃ kataṃ hoti, ajjhattikañceva, āvuso, sotantiādivāresupi eseva nayo.

Ngài chỉ ra 4 Thánh Đế, 12 thể (ākāra) trong từ tathābhūtassa v.v, ở đó, Sắc thực tính được vận hành như thế đó nghĩa là đồng sanh với Nhãn Thức là được hoàn thành bởi Nhãn Thức. Sắc (rūpaṃ): Sắc có 3 sở sanh có được ở Sát-na Nhãn Thức, vì Nhãn Thức là pháp làm cho sắc sanh, thậm chí Sắc có 4 sở sanh có được ở Sát-na Tâm tiếp theo. saṅgahaṃ gacchati: Đi đến sự nhiếp hợp (tính đếm). Tâm Sở Pháp có Thọ v.v, cũng tương ưng với Nhãn Thức tương tự, Thức cũng chính là Nhãn Thức. Ngài nói Tư (cetanā) là Hành trong lời này. Saṅgaho: Nhiếp hợp. Sannipāto: cùng tụ họp lại. Samāvāyo gồm khối (nhóm). Người nào thấy Pháp tùy thuận duyên khởi (yo paṭiccasamuppādaṃ passati): người nào nhìn thấy toàn bộ duyên (paccaya). Người đó được gọi là người thấy Pháp (so dhammaṃ passati): người đó được gọi là người nhìn thấy Pháp tùy thuận duyên khởi. Những từ còn lại có sự ước muốn (chanda, Dục) đồng nghĩa của chính Tham ái. Quả thật Tham ái ngài gọi là Dục bởi thực hành sự mong muốn. Gọi là sự trói buộc vì thực hiện sự trói buộc. Gọi là sự hoan hỷ bởi thực hiện sự hoan hỷ. Gọi là sự mê đắm bởi vì với sức mạnh của việc nắm lấy, đã nuốt chửng, đã bám chặt. Diệt tận dục vọng và ái luyến, đoạn trừ dục vọng và ái luyến: tất cả đều là tên gọi của Niết bàn. Trong Pāḷī chỉ có 3 Thánh Đế cần mang đến Đạo Đế gộp chung lại, với cách này. Liên quan ba sự kiện này, có sự nhận thức, suy nghĩ, lời nói, hành động, sự nuôi mạng, sự tinh tấn, niệm, định, như thế sự thấu triệt do tu tập là Đạo Đế. Vị Tỳ khưu đã làm thật nhiều (bahukataṃ hoti): nguyên nhân chỉ bấy nhiêu đủ để chư Tỳ khưu làm thật nhiều theo lời dạy của đức Thế Tôn. Ngày cả trong phần bắt đầu như vậy: “Này hiền giả, nếu Nhĩ được vận hành bên trong (ajjhattikañceva, āvuso, sotaṃ) cũng theo cách thức này tương tự.

manodvāre pana ajjhattiko mano nāma bhavaṅgacittaṃ. taṃ niruddhampi āvajjanacittassa paccayo bhavituṃ asamatthaṃ mandathāmagatameva pavattamānampi paribhinnaṃ nāma hoti. āvajjanassa pana paccayo bhavituṃ samatthaṃ aparibhinnaṃ nāma. bāhirā ca dhammāti dhammārammaṇaṃ. neva tāva tajjassāti idaṃ bhavaṅgasamayeneva kathitaṃ. dutiyavāro paguṇajjhānapaccavekkhaṇena vā, paguṇakammaṭṭhānamanasikārena vā, paguṇabuddhavacanasajjhāyakaraṇādinā vā, aññavihitakaṃ sandhāya vutto. imasmiṃ vāre rūpanti catusamuṭṭhānampi labbhati. manoviññāṇañhi rūpaṃ samuṭṭhāpeti, vedanādayo manoviññāṇasampayuttā P.2.231, viññāṇaṃ manoviññāṇameva. saṅkhārā panettha phassacetanāvaseneva M.2.134 gahitā. sesaṃ vuttanayeneva veditabbaṃ. iti mahāthero heṭṭhā ekadesameva sammasanto āgantvā imasmiṃ ṭhāne ṭhatvā heṭṭhā parihīnadesanaṃ sabbaṃ taṃtaṃdvāravasena bhājetvā dassento yathānusandhināva suttantaṃ niṭṭhapesīti.

Trong Ý môn, Tâm hộ kiếp gọi là tâm bên trong, Tâm hộ kiếp đó dầu đã diệt không thể làm duyên của Tam khai môn (āvajjanacitta) được, Tâm hộ kiếp có năng lực yếu kém cũng gọi là bị bẻ gãy, có thể làm duyên cho Tâm khai môn gọi là không bị bẻ gãy. Tất cả cảnh Pháp vận hạnh bên ngoài không hiện hữu này ngài nói chính vào thời điểm Tâm hộ kiếp. Trong giai đoạn thứ 2 ngài muốn đề cập vị Tỳ khưu hướng tâm đến chỗ khác bằng sự quán xét Thiền (một cách) khéo léo, chú tâm Nghiệp Xứ thuần thục hoặc trì tụng Phật ngôn đã khéo thuyết giảng v.v. Sắc có 4 sở sanh cũng được gọi là Sắc ở giai đoạn này. Bởi vì Ý Thức làm cho Sắc sanh khởi. Tâm Sở Pháp có Thọ v.v, tương ưng với Ý Thức. Thức cũng chính là Ý Thức. Nhưng ở đây tất cả Hành ngài nắm lấy Tâm Sở Thọ tương tự. Từ còn lại nên biết theo cách thức đã nói. Như vậy Đại Trưởng lão lúc đầu nói chi tiết một phần, đến lúc này (lúc cuối cùng) mới tách ra thuyết giảng mà không trọn vẹn tất cả trong lần sau với mãnh lực Môn (dvāra). Kết thúc bài Kinh theo tuần tự sự liên kết.

Giải Thích Đại Kinh Ví Dụ Dấu Chân Voi Kết Thúc