Kinh số 103 – Giải Thích Kinh Nghĩ Như Thế Nào?

(Kintisuttavaṇṇanā)

Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Nghĩ Như Thế Nào?

34. Evamme sutanti Kintisuttaṃ. Tattha Pisinārāyanti[1] evaṃnāmake maṇḍalappadese. Baliharaṇeti tasmiṃ vanasaṇḍe bhūtānaṃ baliṃ āharanti, tasmā so baliharaṇanti vutto. Cīvarahetūti cīvarakāraṇā, cīvaraṃ paccāsiṃsamānoti attho. Iti bhavābhavahetūti evaṃ imaṃ desanāmayaṃ puññakiriyāvatthuṃ nissāya tasmiṃ tasmiṃ bhave sukhaṃ vedissāmīti dhammaṃ desetīti kiṃ tumhākaṃ evaṃ hotīti attho.

34. Kinh Nghĩ Như Thế Nào? được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, ‘ở thành Pisinārā’ ở đất nước Maṇḍala có tên như vậy. Nơi mang lễ vật đến cúng tế: mọi người mang lễ vật đến cúng tế các loài hữu tình bhūta trong khu rừng đó, vì thế khu rừng đó được gọi là nơi mang lễ vật đến cúng tế. Do nhân y áo: Do nhân y áo, tức là hy vọng y áo. Do nhân hy vọng an lạc trong các hữu, phi hữu: Các ông có suy nghĩ như thế này không? Sa-môn Gotama thuyết Pháp với hy vọng rằng: Ta sẽ y vào Phúc hành tông mà thành tựu việc thuyết giảng Giáo pháp sẽ thọ hưởng sự an lạc trong kiếp sống đó bởi cách như vậy.

35. Cattāro satipaṭṭhānā-tiādayo sattatiṃsa bodhipakkhiyadhammā lokiyalokuttarāva kathitā. Tatthāti tesu sattatiṃsāya dhammesu. Siyaṃsūti bhaveyyuṃ. Abhidhammeti abhivisiṭṭhe dhamme, imesu sattatiṃsabodhipakkhiyadhammesūti attho. Tatra ceti idampi bodhipakkhiyadhammesveva bhummaṃ. Atthato ceva nānaṃ byañjanato ca nānanti ettha “kāyova satipaṭṭhānaṃ vedanāva satipaṭṭhānan”ti vutte atthato nānaṃ hoti, “satipaṭṭhānā”ti vutte pana byañjanato nānaṃ nāma hoti. Tadimināpīti taṃ tumhe imināpi kāraṇena jānāthāti, atthañca byañjanañca samānetvā atthassa ca aññathā gahitabhāvo byañjanassa ca micchā ropitabhāvo dassetabbo. Yo dhammo yo vinayoti ettha attho ca byañjanañca viññāpanakāraṇameva dhammo ca vinayo ca.

35. Đức Thế Tôn thuyết giảng 37 Pháp dự phần giác ngộ có Bốn sự thiết lập niệm v.v, cả Hiệp thế và Siêu thế. Trong số những Pháp đó: Trong 37 Pháp đó. Có thể có: Có thể trở thành. Abhidhamma: Vô Tỷ Pháp, Pháp tối thắng nhất, tức là trong 37 Pháp dự phần giác ngộ này. Nếu…Pháp dự phần giác ngộ đó: đây chỉ định sở cách được sử dụng với ý nghĩa rằng: chỉ những Pháp dự phần giác ngộ đó. Có sự sai khác về ý nghĩa, có sự sai khác về văn tự: trong khi nói “sự thiết lập niệm ở thân, sự thiết lập niệm thọ” có sự khác biệt về ý nghĩa, nhưng khi nói rằng (thân, thọ) trong niệm xứ như vậy được xem là khác biệt về văn tự. Dẫu với biểu hiện sai khác: Ông hãy so sánh ý nghĩa và văn tự rồi chỉ ra ý nghĩa nắm lấy tính chất khác nhau và văn tự được đặt sai, các ông hãy nhận biết sự khác biệt bằng chính nguyên nhân này. Ý nghĩa và văn tự làm nhân để hiểu được nội dung đó là Pháp và Luật trong cụm từ ‘cái nào thuộc về Pháp, cái nào thuộc về Luật’.

37. Atthato hi kho sametīti satiyeva satipaṭṭhānanti gahitā. Byañjanato nānanti kevalaṃ byañjanameva satipaṭṭhānoti vā satipaṭṭhānāti vā micchā ropetha[2]. Appamattakaṃ khoti suttantaṃ patvā byañjanaṃ appamattakaṃ nāma hoti. Parittamattaṃ[3] dhanitaṃ katvā āropitepi hi nibbutiṃ pattuṃ sakkā hoti.

37. Có sự đồng nhất về nghĩa: Ngài giữ lấy chính niệm đó là sự thiết lập niệm. Có sự đồng nhất về văn tự: chính toàn bộ những văn tự được đặt sai ‘satipaṭṭhāno hoặc satipaṭṭhānā’. Những vấn đề nhỏ nhặt: Khi vừa đến bài Kinh thì phụ âm được xem là nhỏ nhặt, kể cả việc đưa ra những văn tự có giọng nhẹ làm cho trở thành giọng nặng (là âm nhấn mạnh – dhanita) có thể trở thành phụ âm được lược đi.

Tatridaṃ vatthu:- vijayārāmavihāravāsī kireko khīṇāsavatthero dvinnaṃ bhikkhūnaṃ suttaṃ āharitvā kammaṭṭhānaṃ kathento “samuddho samuddhoti bhikkhave assutavā puthujjano bhāsatī”ti dhanitaṃ katvā āha. Eko bhikkhu “samuddho[4] nāma bhante”ti āha. Āvuso samuddhoti vuttepi samuddoti vuttepi mayaṃ loṇasāgarameva jānāma, tumhe pana no atthagavesakā, byañjanagavesakā, gacchatha mahāvihāre paguṇabyañjanānaṃ bhikkhūnaṃ santike byañjanaṃ sodhāpethāti kammaṭṭhānaṃ akathetvāva uṭṭhāpesi. So aparabhāge mahāvihāre bheriṃ paharāpetvā bhikkhusaṃghassa catūsu maggesu pañhaṃ kathetvāva parinibbuto. Evaṃ sutantaṃ patvā byañjanaṃ appamattakaṃ nāma hoti.

Trong vấn đề này có câu chuyện minh họa như sau: – Được nghe như vầy một vị trưởng lão lậu tận cư trú tại Vijayārāma khi mang bài Kinh đến thuyết về đề mục nghiệp xứ cho 2 vị Tỳ khưu đã nói với giọng nặng như vầy: “này các Tỳ khưu, hạng phàm nhân không được nghe sẽ nói rằng: samuddha samuddha”. Một vì Tỳ khưu đã nói rằng: “thưa ngài, gọi là samuddho”. – Này hiền giả, khi nói rằng: ‘samuddha’, hay nói rằng ‘samudda’ chúng tôi cũng nhận biết được rằng (đề cập đến) ‘biển, nước mặn đó’. Chúng tôi không tìm kiếm ý nghĩa, chỉ tìm kiếm văn tự, các ông hãy chứng minh các văn tự ở trong trú xứ của vị Tỳ khưu thông thạo về văn tự ở Đại tịnh xá, không nói về nghiệp xứ đứng dậy rời đi. Sau đó, ngài trưởng lão lậu tận cho đánh trống ở Đại tịnh xá (là báo hiệu đến hội họp) rồi thuyết đến vấn đề trong bốn Đạo đến chúng Tỳ khưu rồi viên tịch Nibāna. Khi đến bài Kinh văn tự được xem là chút ít như vậy.

Vinayaṃ pana patvā no appamattakaṃ nāma. Sāmaṇerapabbajjāpi hi ubhato suddhikato vaṭṭati, upasampadādikammānipi sithilādīnaṃ dhanitādikaraṇamatteneva kuppanti. Idha pana suttantabyañjanaṃ sandhāyetaṃ vuttaṃ.

Nhưng đến luật thì không thể gọi là chút ít được. Bởi vì việc xuất gia trở thành một vị Sa-di cần phải trong sạch cả hai (là ý nghĩa và văn tự) mới thích hợp. Thâm chí hành động có việc tu lên bậc trên v.v, cũng trở nên xấu đi chỉ vì lý do giọng nhẹ thay đổi thành giọng nặng v.v. Nhưng ở chỗ này ngài nói lời này để đề cập đến văn tự trong bài Kinh.

38. Atha catutthavāre[5] vivādo kasmā? saññāya[6] vivādo. “ahaṃ satiṃyeva satipaṭṭhānaṃ vadāmi, ayaṃ `kāyo satipaṭṭhānan’ti vadatī”ti hi nesaṃ saññā[7] hoti. Byañjanepi eseva nayo.

38. Vậy thì trong phần thứ tư tại sao lại nói tách biệt? Nói tách biệt bởi tưởng rằng: ta nói rằng: ‘chính niệm đó là sự thiết lập niệm’, ngài này lại nói rằng: ‘sự thiết lập niệm ở thân’. Ngay cả trong văn tự cũng có cách thức tương tự như vậy.

39. Na codanāya taritabbanti na codanatthāya vegāyitabbaṃ. Ekacco hi puggalo “nalāṭe te sāsapamattā piḷakā”ti vutto “mayhaṃ nalāṭe sāsapamattaṃ piḷakaṃ passasi, attano nalāṭe tālapakkamattaṃ mahāgaṇḍaṃ na passasī”ti vadati. Tasmā puggalo upaparikkhitabbo. Adaḷhadiṭṭhīti anādānadiṭṭhī suṃsumāraṃ hadaye[8] pakkhipanto viya daḷhaṃ na taṇhāti.

39. Chớ có khiển trách hấp tấp: chớ có khiển trách do sự bốc đồng. Bởi vì một số hạng người nói rằng “có một mụn nhọt bằng hạt cải ở trán của ngài” cũng đã nói rằng: “ngài nhìn thấy mụn nhọt bằng hạt cải ở trán của ta (nhưng) không nhìn nhìn thấy ung nhọt lớn bằng quả thốt nốt ở trán của mình”. Cho nên, cá nhân cần được xem xét. Không có kiến vững chắn: không có kiến trong việc chấp thủ, không chấp chặt giống như đặt một con cá sấu vào trong tâm.

Upaghātoti caṇḍabhāvena vaṇaghaṭṭitassa viya dukkhuppatti. Suppaṭinissaggīti  “kiṃ nāmāhaṃ āpanno, kadā āpanno”ti vā “tuvaṃ āpanno, tava upajjhāyo āpanno”ti vā ekaṃ dve vāre vatvāpi “asukaṃ nāma asukadivase nāma bhante āpannattha, saṇikaṃ anussarathā”ti saritvā tāvadeva vissajjissati. Videsāti bahuṃ atthañca kāraṇañca āharantassa kāyacittakilamatho. Sakkomīti evarūpo hi puggalo okāsaṃ kāretvā “āpattiṃ āpannattha bhante”ti vutto “kadā kismiṃ vatthusmin”ti vatvā “asukadivase asukasmiṃ vatthusmin”ti vutte “na sarāmi āvuso”ti vadati, tato “saṇikaṃ bhante sarathā”ti bahuṃ vatvā sārito saritvā vissajjeti. Tenāha “sakkomī”ti. Iminā nayena sabbattha attho veditabbo.

Sự phá hại: tạo ra sự khổ đau bởi bản chất người khó dạy cũng giống như bị va chạm chỗ vết thương. Dễ dàng để từ bỏ: dù nói một lời, hai lời rằng: “Tôi bị phạm tội tên gì, bị phạm tội vào lúc nào?” hoặc “Ngài cần phải sám hối, thầy tế độ của ngài cần phải sám hối” rồi nhắc nhở để cho nhớ rằng: “kính bạch ngài, ngài cần phải sám hối lỗi lầm đó, vào ngày hôm đó, ngài hãy từ từ nhớ lại, chỉ cần như thế sẽ dễ dàng dứt bỏ hoàn toàn. Sự não hại: sự khó chịu thân và tâm của hạng người mang lại nhiều ý nghĩa và lý do. Ta có thể: bởi hạng người như vậy đã tạo cơ hội, khi ai nói rằng: “ngài cần phải sám hối thưa ngài” – đã nói rằng: “Vào lúc nào? trong vấn đề gì?” – khi vị ấy nói rằng: “Vào ngày hôm đó, trong vấn đề đó” – đã nói rằng: “này hiền giả, tôi không thể nhớ ra”. Từ đó, rất nhiều người đã nói để cho (vị ấy) suy nghĩ rằng: “Thưa ngài, ngài hãy từ từ suy nghĩ” khi đã nhớ ra được sẽ dứt bỏ (tức là sám hối lỗi). Vì thế đức Thế Tôn đã nói rằng: “ta có thể”. Nên hiểu ý nghĩa ở các câu theo cách này.

Upekkhā nātimaññitabbāti upekkhā na atikkamitabbā, kattabbā janetabbāti attho. Yo hi evarūpaṃ puggalaṃ ṭhitakaṃyeva passāvaṃ karontaṃ disvāpi “nanu āvuso nisīditabban”ti vadati, so upekkhaṃ atimaññati nāma.

Không nên từ bỏ xả: Không nên vượt khỏi xả, tức là nên thực hành, nên làm cho xả sanh khởi. Bởi vì hạng người nào nhìn thấy hạng người như vậy đứng tiểu tiện cũng nói rằng: “Này hiền giả, ngồi không phải sao?” hạng người ấy gọi là vượt khỏi xả.

40. Vacīsaṃhāroti vacanasañcāro. Imehi kathitaṃ amūlaṃ antaraṃ paveseyya, tumhe imehi idañcidañca vuttāti amūhi kathitaṃ imesaṃ antaraṃ paveseyyāti attho. Diṭṭhipaḷāsoti-ādīhi cittassa anārādhanīyabhāvo kathito. Taṃ jānamāno samāno garaheyyāti taṃ satthā jānamāno samāno nindeyya amheti. Etaṃ panāvuso dhammanti etaṃ kalahabhaṇḍanadhammaṃ.

40. Vacīsaṃhāro: nói khiêu khích. Tức là mang lời nói của nhóm người này nói ra ở giữa nhóm người kia, mang lời nói của nhóm người kia để nói ở giữa nhóm người này, các ngài bị nhóm người này nói như thế này thế nọ. Nói đến bản chất tâm không hoan hỷ với các câu được bắt đầu như sau: “có những quan điểm ngoan cố”. Sa-môn trong khi biết được điều đó có thể khiển trách: Bậc Đạo Sư khi biết được vấn đề đó có thể khiển trách chúng ta. Hơn nữa, này hiền giả (vị Tỳ khưu không từ bỏ) Pháp này: Pháp là sự tranh luận, tranh cãi đó.

Tañceti taṃ saññattikārakaṃ[9] bhikkhuṃ. Evaṃ byākareyyāti mayā ete suddhante patiṭṭhāpitāti avatvā yena kāraṇena saññatti[10] katā, tameva dassento evaṃ byākareyya. Tāhaṃ dhammaṃ sutvāti ettha dhammoti sāraṇīyadhammo adhippeto. Na ceva attānantiādīsu “brahmalokappamāṇo hesa aggi uṭṭhāsi, ko etamaññatra mayā nibbāpetuṃ samattho”ti hi vadanto attānaṃ ukkaṃseti nāma. “ettakā janā vicaranti, okāso laddhuṃ na sakkā, ekopi ettakamattaṃ nibbāpetuṃ samattho nāma natthī”ti vadamāno paraṃ vambheti nāma. Tadubhayampesa na karoti. Dhammo panettha sammāsambuddhassa byākaraṇaṃ, tesaṃ bhikkhūnaṃ saññattikaraṇaṃ anudhammo, tameva byākaroti nāma. Na ca koci sahadhammikoti añño cassa koci sahetuko parehi vutto vādo vā anuvādo vā garahitabbabhāvaṃ āgacchanto nāma natthi. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.

Nếu…có thể hỏi: vị Tỳ khưu thực hiện việc sự nhận thức (tuyên bố cho biết) sắc đó. Nên trả lời như vậy: khi thuyết nhân mà vị Tỳ khưu thực hiện sự nhận thức không nói rằng: “những vị Tỳ khưu đó, ta cho an trú trong sự thanh tịnh đó, nên trả lời như vậy. Pháp cần được ghi nhớ ngài đề cập đến Pháp trong lời này “Tôi đã nghe Pháp của ngài”. Không đề cao bản thân: Vị Tỳ khưu đã nói rằng: “Ngọn lửa ước chừng bằng Phạm thiên giới này đã được thiết lập, ngoại trừ ta thì ai có thể khiến ngọn lửa đó bị diệt tắt, (như vậy) gọi là đề cao bản thân.” Vị Tỳ khưu nói rằng: “Người khoảng chừng này nói chuyện, cũng không thể có được cơ hội, được gọi là làm cho câu chuyện chừng này được dập tắt. Không có dù chỉ một người (như vậy) gọi là kiềm chế người khác.” Vị Tỳ khưu này không thực hiện cả hai. Hơn nữa ở đây việc trả lời của bậc Chánh đẳng Chánh giác gọi là Pháp. Việc thực hiện sự nhận thức của những vị Tỳ khưu ấy gọi là Pháp được phù hợp. Vị Tỳ khưu này gọi là trả lời Pháp thích hợp đối với Pháp ấy. Không một ai trong các Pháp hữu: Việc nói của các vị thầy hoặc việc nói của các học trò khác hợp với nhân mà vị Tỳ khưu ấy đã nói với các câu thì không đáng bị khiển trách. Từ còn lại ở các câu đều đơn giản.

Giải Thích Nghĩ Như Thế Nào? Kết Thúc


[1] Sī. Syā. – Kusinārāyanti

[2] Syā. – micchā ropitaṃ

[3] Sī. Syā. – parittamattakaṃ

[4] Syā. – ko samuddho

[5] Ka. – catutthavāde

[6] Ka. – paññāya

[7] Ka. – paññā

[8] Sī. – suṃsumārahadaye, Syā. – saṃsumāra hadaye

[9]  Ka. – paññattakārakaṃ

[10] Ka. – paññatti