Kinh số 100 – Giải Thích Kinh Saṅgārava
(Saṅgāravasuttavaṇṇanā)Xem Trung Bộ Kinh – Kinh Saṅgārava
473. Evamme sutanti saṅgāravasuttaṃ. Tattha Cañcalikappeti1 evaṃnāmake gāme. Abhippasannāti aveccappasādavasena pasannā. Sā kira sotāpannā ariyasāvikā bhāradvājagottassa brāhmaṇassa bhariyā. So brāhmaṇo pubbe kālena kālaṃ brāhmaṇe nimantetvā tesaṃ sakkāraṃ karoti. Imaṃ pana brāhmaṇiṃ gharaṃ ānetvā abhirūpāya mahākulāya brāhmaṇiyā cittaṃ kopetuṃ asakkonto brāhmaṇānaṃ sakkāraṃ kātuṃ nāsakkhi. Atha naṃ brāhmaṇā diṭṭhadiṭṭhāne “nayidāni tvaṃ brāhmaṇaladdhiko, ekāhampi2 brāhmaṇānaṃ sakkāraṃ na karosī”ti nippīḷenti. So gharaṃ āgantvā brāhmaṇiyā tamatthaṃ ārocetvā “sace bhoti ekadivasaṃ mukhaṃ rakkhituṃ sakkuṇeyyāsi, brāhmaṇānaṃ ekadivasaṃ bhikkhaṃ dadeyyan”ti āha. Tuyhaṃ deyyadhammaṃ ruccanakaṭṭhāne dehi, kiṃ mayhaṃ etthāti. So brāhmaṇe nimantetvā appodakapāyāsaṃ pacāpetvā gharaṃ sujjhāpetvā āsanāni paññapetvā brāhmaṇe nisīdāpesi. Brāhmaṇī mahāsāṭakaṃ nivāsetvā kaṭacchuṃ gahetvā parivisantī dussakaṇṇake3 pakkhalitvā “brāhmaṇe parivisāmī”ti saññampi akatvā āsevanavasena sahasā satthārameva anussaritvā udānaṃ udānesi.
473. Kinh Subha được bắt đầu như sau: “Tôi đã được nghe như vầy.” Ở đó, trong làng Cañcalikappa: ở trong ngôi làng có tên như vậy. Có lòng tịnh tín tối thượng: Tịn tính bởi sự tịn tính không lay động. Được biết rằng nữ Bà-la-môn là vị Thánh Thinh văn Nhập Lưu là vợ của Bà-la-môn Bhāradvājagotta, trước đây Bà-la-môn đó thường thỉnh mời các Bà-la-môn đến thực hành lễ bái các vị Bà-la-môn ấy, vào lúc đưa nữ Bà-la-môn này vào nhà, (vị ấy) không thể làm tâm nổi giận đối với một nữ Bà-la-môn có hình dáng vô cùng xinh đẹp, có gia đình danh giá, (và) không thể thực hành lễ bái với các Bà-la-môn. Lúc đó, các Bà-là-môn đã mỉa mai vị Bà-la-môn ấy ở mọi nơi có thể nhìn thấy rằng: “Bây giờ, ông không còn giữ học thuyết của Bà-la-môn nên mới không thực hiện sự lễ bái các Bà-la-môn dù chỉ một lần.” Bà-la-môn ấy sau khi trở về nhà thuật lại nội dung ấy cho nữ Bà-la-môn rồi nói rằng: “Nếu nàng có thể giữ thể diện cho ta trong một ngày, thì ta sẽ sẽ cho nàng cúng dường đặt bát đến các Bà-la-môn trong một ngày.” Nữ Bà-la-môn đáp: ngài hãy bố thí vật dâng cúng của ngài ở nơi ưa thích, còn ta thì có lợi ích gì trong vấn đề này. Vị ấy đã thỉnh mời các Bà-la-môn, đã cho nấu cơm sữa ráo nước mời tại tư gia, cho sắp đặt các chỗ ngồi rồi mời các Bà-la-môn an toạ. Nữ Bà-la-môn mặc một tâm y Sāṭaka lớn cầm lấy cái vá phục vụ vật thực (lơ đễnh) đã trượt ngã (làm lộ) ở mép vải đã không nghĩ rằng ta đang phục vụ Bà-la-môn mà chỉ nhớ tưởng đến bậc Đạo Sư ngay lập tức thốt lên lời cảm hứng nhờ tác động (của hành động) lập đi lập lại.
Brāhmaṇā udānaṃ sutvā “ubhatopakkhiko esa samaṇassa gotamassa sahāyo, nāssa deyyadhammaṃ gaṇhissāmā”ti kupitā bhojanāni chaḍḍetvā nikkhamiṃsu. Brāhmaṇo “nanu paṭhamaṃyeva taṃ avacaṃ `ajjekadivasaṃ mukhaṃ rakkheyyāsī’ti, ettakaṃ Te khīrañca taṇḍulādīni ca nāsitānī”ti ativiya kopavasaṃ upagato “evameva panāyaṃ vasalī yasmiṃ vā tasmiṃ vā tassa muṇḍakassa samaṇassa vaṇṇaṃ bhāsati, idāni tyāhaṃ vasali tassa satthuno vādaṃ āropessāmī”ti āha. Atha naṃ brāhmaṇī “gaccha tvaṃ brāhmaṇa gantvā vijānissasī”ti vatvā “na khvāhaṃ taṃ brāhmaṇa passāmi sadevake loke -pe- vādaṃ āropeyyā”tiādimāha.
Các Bà-la-môn sau khi nghe lời cảm hứng đã nổi giận rằng: “bạn của Sa-môn Gotama, kẻ này là người hai mặt chúng ta sẽ không thọ nhận vật cúng dường của kẻ ấy” đã bỏ các món vật dụng rồi đi ra khỏi. Bà-la-môn đã nói rằng: “Không phải ta đã nói với nàng ngay từ lúc đầu rồi hay sao? Xin nàng hãy giữ thể diện cho ta duy nhất ngày hôm nay chỉ bấy nhiêu thôi đã làm cho ta mất hết thể diện,’ mãnh lực lòng thù hận cao độ (vị ấy) đã nói rằng: “Như vậy trong mọi thời, mọi dịp, kẻ hạ tiện này nói lời tán thán vị Sa-môn trọc đầu ấy. Này kẻ hạ tiện kia, ta sẽ luận phá bậc Ðạo Sư của ngươi.” Khi đó, nữ Bà-la-môn đã nói với Bà-la-môn đó rằng: “Vậy này Bà-la-môn, ông hãy đi. Sau khi đi, ông sẽ biết.” – rồi nói “Thưa Bà-la-môn, tôi không thấy trong thế giới chư Thiên -nt-, không một ai có thể luận phá…”
So satthāraṃ upasaṅkamitvā: –
“Kiṃsu chetvā sukhaṃ seti, kiṃsu chetvā na socati
Kissassu ekadhammassa vadhaṃ rocesi Gotamā”ti (saṃ. ni. 1.187) —
Pañhaṃ pucchi.
Vị ấy sau khi đến gặp bậc Đạo Sư rồi hỏi vấn đề như sau: –
“Sau khi cắt đứt cái gì, ngủ an lạc? Sau khi cắt đứt cái gì, không sầu muộn?
Thưa ngài Gotama, ngài tán thành việc sát hại đối với một pháp nào?”
Satthā āha: –
Kodhaṃ chetvā sukhaṃ seti, kodhaṃ chetvā na socati
Kodhassa visamūlassa madhuraggassa brāhmaṇa
Vadhaṃ ariyā pasaṃsanti tañhi ghatvā na socatī”ti (saṃ. ni. 1.187) —
pañhaṃ kathesi.
Bậc Đạo Sư đã đáp vấn đề như sau: —
Sau khi cắt đứt giận dữ, ngủ an lạc. Sau khi cắt đứt sự giận dữ, không sầu muộn.
Này Bà-la-môn, sự giận dữ có gốc rễ là độc tố, có ngon là mật ngọt, các bậc Thánh ca ngợi việc sát hại đối với sự giận dữ bởi vì sau khi cắt đứt nó, không sầu muộn.
So pabbajitvā arahattaṃ patto. Tasseva kaniṭṭhabhātā Akkosakabhāradvājo nāma “bhātā me pabbajito”ti sutvā bhagavantaṃ upasaṅkamitvā akkositvā bhagavatā vinīto pabbajitvā arahattaṃ patto. Aparo tassa kaniṭṭho Sundarikabhāradvājo nāma, sopi bhagavantaṃ upasaṅkamitvā pañhaṃ pucchitvā vissajjanaṃ sutvā pabbajitvā arahattaṃ patto. Aparo tassa kaniṭṭho Piṅgalabhāradvājo nāma, so pañhaṃ pucchitvā pañhabyākaraṇapariyosāne pabbajitvā arahattaṃ patto. Saṅgāravo māṇavoti ayaṃ tesaṃ sabbakaniṭṭho tasmiṃ divase brāhmaṇehi saddhiṃ ekabhattagge nisinno. Avabhūtāvāti4 avaḍḍhibhūtā amaṅgalabhūtāyeva. Parābhūtāvāti vināsaṃ pattāyeva. Vijjamānānanti vijjamānesu. Sīlapaññāṇanti sīlañca ñāṇañca na jānāsi.
Sau khi Bà-la-môn ấy xuất gia đã chứng đắc A-ra-hán. Em trai của vị ấy tên là Akkosaka-bhāradvāja đã nghe được tin tức rằng: “anh của ta đã xuất gia” đa đến gặp đức Thế Tôn hướng dẫn cho xuất gia đã chứng đắc A-ra-hán. Thêm một người em trái của vị ấy tên là Sundarika-bhāradvāja, kể cả vị ấy cũng đến gặp đức Thế Tôn để hỏi vấn đề, sau khi nghe giải đáp vấn đề rồi xuất gia cũng chứng đắc A-ra-hán. Em trai nhỏ của vị Bà-la-môn ấy tên là Piṅgala-bhāradvāja, hỏi vấn đề vào lúc kết thúc nói vấn đề đã xuất gia rồi cũng chứng đắc A-ra-hán. Thanh niên Bà-la-môn Saṅgārava: thanh niên này là người non nớt (trẻ) hơn Bà-la-môn trong số những Bà-la-môn đó vào ngày hôm đó đã ngồi cùng một chỗ ở nhà ăn cùng với nhóm Bà-la-môn. Là kẻ hạ liệt: là kẻ không phát triển, là kẻ không có sự may mắn. Là kẻ suy đồi: là kẻ chỉ đưa đến sự suy vong. Đang tồn tại: là trong khi còn sống. Giới và tuệ: ông không biết giới và trí.
474. Diṭṭhadhammābhiññāvosānapāramippattāti diṭṭhadhamme abhiññāte imasmiññeva attabhāve abhijānitvā vositavosānā hutvā pāramisaṅkhātaṃ sabbadhammānaṃ pārabhūtaṃ nibbānaṃ pattā mayanti vatvā ādibrahmacariyaṃ paṭijānantīti attho. Ādibrahmacariyanti brahmacariyassa ādibhūtā upakārakā janakāti evaṃ paṭijānantīti vuttaṃ hoti. Takkīti takkagāhī. Vīmaṃsīti vīmaṃsako, paññācāraṃ carāpetvā evaṃvādī. Tesāhamasmīti tesaṃ sammāsambuddhānaṃ ahamasmi aññataro.
Họ đã chứng đạt được cứu cánh ba-la-mật bởi thắng tri ngay trong hiện tại: là những Bà-la-môn đã nói rằng tất cả chúng tôi đã đạt đến tận cùng, đã chứng đắc Nibbāna đó là sự thành tựu ân đức tối thượng của các Pháp được xem là ba-la-mật do thắng tri chính trong tự ngã này đây, như thế được gọi là tự nhận về căn bản Phạm hạnh. Căn bản Phạm hạnh: giải thích rằng tự nhận như vầy là sự khởi đầu (điểm bắt đầu) là sự trợ giúp, là người thực hiện cho sanh khởi Phạm hạnh. Suy tư: là người suy nghĩ bằng việc phỏng đoán. Quán xét: là người suy xét, là người thường sử dụng trí tuệ để suy xét, được nói như thế.
485. Aṭṭhitavatanti aṭṭhitatapaṃ, assa padhānapadena saddhiṃ sambandho, tathā sappurisapadassa. Idañhi vuttaṃ hoti – bhoto gotamassa aṭṭhitapadhānavataṃ ahosi, sappurisapadhānavataṃ ahosīti. Atthi devāti5 puṭṭho samānoti idaṃ māṇavo “sammāsambuddho ajānantova pakāsesī”ti saññāya āha. Evaṃ santeti tumhākaṃ ajānanabhāve sante. Tucchaṃ musā hotīti tumhākaṃ kathā aphalā nipphalā hoti. Evaṃ māṇavo bhagavantaṃ musāvādena niggaṇhāti nāma. Viññunā purisenāti paṇḍitena manussena. Tvaṃ pana aviññutāya mayā byākatampi na jānāsīti dīpeti. Uccena sammatanti uccena saddena sammataṃ pākaṭaṃ lokasmiṃ. Adhidevāti susudārakāpi hi devā nāma6 honti, deviyo nāma honti, devā pana atidevā nāma, loke devo devīti laddhanāmehi manusseti adhikāti attho. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
485. Ta là một người trong số những Bà-la-môn đó: Ta là một bậc Chánh đẳng Chánh giác trong số những bậc Chánh đẳng Chánh giác đó. Việc nối từ ‘aṭṭhika’ trong luật hợp âm ‘aṭṭhitavatā (trung kiên)’ vào từ ‘padhāna (sự tinh cần)’. Tiếp nối từ ‘sappurisa (bậc Chân Nhân)’ vời từ ‘padhāna (sự tinh cần)’ cũng tương tự như thế. Giải thích rằng: sự tinh tấn không ngừng nghỉ, sự tinh tấn của bậc Chân Nhân đã tồn tại đối với ngài Gotama. Khi được hỏi có các chư Thiên không? nghĩa là thanh niên Bà-la-môn nói lời này với suy nghĩ rằng: “bậc Chánh đẳng Chánh giác tuyên bố cả chỗ không biết. Sự việc là như vậy: ý nghĩa mà (ngài) không biết có tồn tại. Là hư ngôn, là vọng ngữ: lời nói của ngài là lời nói không có kết quả, xa lìa kết quả. Thanh niên Bà-la-môn gọi là cản trở lời nói của ngài bằng lời nói rằng nói vọng ngữ như thế. Bởi người có trí: với người là bậc sáng trí. Chỉ ra rằng ông không biết lời nói ngay cả ta dự đoán trước bởi sự thiếu hiểu biết. Vị ấy công nhận…bằng từ ngữ cao: vị ấy công nhận, gồm cả sự xuất hiện ở thế gian bằng với từ ngữ tầng lớp cao. Có chư Thiên: kể cả những bé trai bé gái gọi là chư thiên cũng có, gọi là thiên nữ cũng có. Còn chư Thiên gọi là tối thượng Thiên, là người cao cả hơn loài người, người được gọi là Thiên nam, Thiên nữ ở đời. Từ còn lại trong các câu đều đơn giản.
Giải Thích Kinh Saṅgārava Kết Thúc.
1 Sī. – Maṇḍalakappeti. Syā. – Paccalakappeti
2 Ka. – ettakaṃ kālampi, Syā. – ekampi
3 Sī. – Dasākaṇṇake
4 Sī. Syā – avabhūtā cāti
5 Ka. – Adhidevāti
6 Sī. Syā. – Atidevā nāma